Trang nhất » Tọa đàm » ĐH Thượng Hải - Trung Quốc » 2016


GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM: THÀNH TỰU NỔI BẬT VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

Chủ nhật - 09/07/2017 21:09
TS Lê Văn Định*
Một trong tám đặc trưng về xây dựng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là giải phóng con người, làm cho con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện. Tuy nhiên, khi dùng kinh tế thị trường như công cụ phát triển và quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng sẽ xuất hiện các vấn đề xã hội mới có thể tác động tiêu cực, hạn chế quá trình thực hiện mục tiêu trên. Với nhận thức như vậy, nên cùng với quá trình phát triển kinh tế, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tập trung giải quyết các vấn đề xã hội; đây là một trong những đặc trưng quá trình đổi mới ở Việt Nam thể hiện bản chất của chế độ, của đường lối phát triển đất nước mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã lựa chọn.
Mặc dù đã có đường lối như vậy, nhưng sau 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, Việt Nam đã có những bước phát triển lớn về kinh tế - xã hội, trở thành nước có thu nhập trung bình, cũng như đạt nhiều thành tựu về chính trị, văn hóa, xã hội… nhưng cũng đang phải đối mặt với nhiều vấn đề xã hội nảy sinh, trong đó có những vấn đề đang trở nên bức xúc. Vì vậy, để đạt được những mục tiêu phát triển đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định phải giải quyết hiệu quả những vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình phát triển; cùng với phát triển kinh tế cần chú trọng giải quyết kịp thời, hiệu quả các vấn đề xã hội.
Đã từ rất sớm, Chính phủ Việt Nam đã xác định 10 vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình phát triển là[1]:
(1)- Vấn đề thất nghiệp, thiếu việc làm và giải quyết việc làm.
(2)- Vấn đề đói nghèo và thực thi xóa đói giảm nghèo.
(3)- Vấn đề hòa nhập xã hội (tạo cơ hội đảm bảo sự bình đẳng cho mọi người về các quyền chính trị, kinh tế, các dịch vụ xã hội: học tập, chữa bệnh, hưởng thụ văn hóa, đảm bảo tuổi già, hướng vào các nhóm xã hội quan trọng bị thiệt thòi trong phát triển, dễ bị tổn thương) với các nhóm đối tượng gồm: phụ nữ, trẻ em, thanh niên, dân tộc thiểu số, người tàn tật, người cao tuổi, đồng bào vùng khó khăn, phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh... để hòa nhập cộng đồng.
(4)- Vấn đề gia đình (tăng cường vai trò của gia đình).
(5)- Vấn đề phát triển giáo dục.
(6)- Vấn đề dân số, kế hoạch hóa gia đình.
(7)- Vấn đề chăm sóc sức khỏe nhân dân.
(8)- Bảo trợ xã hội (trong đó có bảo hiểm xã hội và trợ giúp xã hội).
(9)- Vấn đề ô nhiễm môi trường.
(10)- Vấn đề tệ nạn xã hội: ma túy, mại dâm, cờ bạc,...
Mười vấn đề đó đã thể hiện một cách toàn diện về lĩnh vực xã hội song chưa đủ bao quát hết những vấn đề nảy sinh trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập quốc tế. Do đó, cùng với 10 vấn đề đã nêu, các tác giả nghiên cứu đề tài “Những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội hiện nay - Vận dụng cho Việt Nam” (mã số KX.02.06/06-10) đã bổ sung thêm:
(11)- Giải quyết hậu quả xã hội của chiến tranh (nạn nhân chất độc màu da cam, chăm sóc thương binh nặng, trẻ mồ côi, người không nơi nương tựa, người sống không gia đình, tìm kiếm, quy tụ hài cốt liệt sĩ và chính sách với gia đình liệt sĩ, với người có công đang gặp khó khăn trong cuộc sống đời thường...).
(12)- Hiện tượng xuất cư và nhập cư. Sự di chuyển dân cư từ nông thôn ra đô thị, hiện tượng nhân khẩu thường trú ở nông thôn, làm việc tại các khu công nghiệp (công nhân và lao động làm thuê).
(13)- Vấn đề an ninh trật tự an toàn xã hội.
(14)- Người Việt Nam kết hôn với người nước ngoài.
(15)- Người nước ngoài làm ăn, sinh sống tại Việt Nam.
(16)- Vấn đề nhà ở và việc giải quyết nhà ở theo chính sách xã hội cho người nghèo, đặc biệt là nhà ở cho học sinh, sinh viên, cho công nhân trong các khu công nghiệp.
(17)- Giao thông đô thị và trật tự an toàn giao thông.
(18)- An toàn lương thực, thực phẩm trong điều kiện một nền nông nghiệp bẩn.
(19)- Mê tín dị đoan - một biến thái tiêu cực của đời sống tâm linh.
(20)- Các bệnh xã hội trong xã hội công nghiệp trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, các tệ nạn xã hội, đặc biệt gần đây là nạn bạo hành đối với phụ nữ và trẻ em.
(21)- Hiện tượng lệch lạc về cơ cấu xã hội (cơ cấu lao động, cơ cấu nghề nghiệp, cơ cấu giới tính, lứa tuổi), biến đổi xã hội từ phân tầng xã hội - mặt tích cực và tiêu cực.[2]
Để giải quyết các vấn đề xã hội nêu trên, giới Lãnh đạo quản lý và giới học giả ở Việt Nam cho rằng, cùng với việc thực thi chính sách phát triển kinh tế cần song hành thực thi chính sách phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã sớm nhận thức và giải quyết vấn đề xã hội thông qua việc ban hành và đưa vào thực thi hệ thống chính sách xã hội; xác định hệ thống chính sách xã hội là một mục tiêu quan trọng của cách mạng. Trong 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, giải quyết các vấn đề xã hội không ngừng được Đảng, Nhà nước Việt Nam quan tâm: Văn kiện Đại hội Đảng VI (1986) nhấn mạnh tầm quan trọng của giải quyết các vấn đề xã hội; đến Đại hội Đảng VII (1991) thì nhấn mạnh mục tiêu thực hiện công bằng xã hội trong kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tại Đại hội Đảng XI (2011) Đảng ta xác định: Định hướng XHCN gắn với giải quyết vấn đề xã hội; trong đó, nhấn mạnh thực hiện mục tiêu quan trọng là phát triển kinh tế đi đôi với giải quyết vấn đề xã hội; giải quyết vấn đề xã hội, thực hiện chính sách xã hội nhằm tạo động lực cho sự phát triển xã hội. Kế thừa quan điểm, tư tưởng qua các kỳ đại hội, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: Thực hiện có hiệu quả tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm an sinh xã hội trong từng bước đi và từng chính sách phát triển; chính sách xã hội phải xuất phát từ thực tiễn và hướng vào phục vụ cho từng giai tầng xã hội…
Trong suốt quá trình đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội  thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong  từng chính sách và từng bước phát triển. Phát triển toàn diện các lĩnh vực xã hội hài hòa với phát triển kinh tế; coi văn hóa vừa là mục tiêu vừa là động lực, là nguồn lực nội sinh của phát triển, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời mở rộng giao lưu văn hóa thế giới, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, làm phong phú hơn đời sống văn hóa, con người Việt Nam.
Trong suốt quá trình đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã quan tâm phát triển giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ, coi phát triển giáo dục, đào tạo cùng với  khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu. Tiến hành đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo ở các cấp học và ngành học. Mở rộng giáo dục mầm non 5 tuổi. Thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở. Phát triển mạnh dạy nghề và giáo dục chuyên nghiệp, nâng cao chất lượng giáo dục đại học,... Để khoa học và công nghệ thực sự là động lực then chốt của quá trình phát triển, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã chủ trương thực hiện đồng bộ 3 nhiệm vụ chủ yếu: Nâng cao năng lực khoa học và công nghệ; đổi mới cơ chế quản lý; đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng. Trên cơ sở phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ trương từng bước phát triển nền kinh tế tri thức theo một số lộ trình hợp lý.
Trong gần 30 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã thực thi mạnh mẽ, hiệu quả chính sách giảm nghèo bền vững, nhất là đối với các vùng nghèo, huyện nghèo, xã nghèo, người nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số. Vì vậy, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm bình quân gần 2%/ năm. Năm 2011, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm từ 60% trước đổi mới xuống còn 9,5%, năm 2013 còn 7,5%, năm 2015 còn dưới 5%. Thành tựu về giảm nghèo của Việt Nam được các tổ chức quốc tế đánh giá cao.
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ, hệ thống cơ sở y tế được hình thành rộng khắp trong cả nước; số bác sĩ, số giường bệnh trên một vạn dân tăng nhanh. Hệ thống dịch vụ y tế ngày càng được nâng  cao chất lượng. Chính sách ưu đãi người có công với cách mạng được đặc biệt quan tâm, đảm bảo mức sống người có công bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân cư trên địa bàn cư trú. Đã xây dựng và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả; phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm như: Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để người lao động tiếp cận và tham gia các loại hình bảo hiểm; mở rộng các hình thức cứu trợ xã hội; bảo đảm cung ứng một số dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân, nhất là cho người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn và đồng bào dân tộc thiểu số.
Trong lĩnh vực trợ giúp xã hội: từ năm 1986 đến nay, Chính phủ Việt Nam đã ban hành, thực hiện 10 luật, 7 pháp lệnh, hơn 30 nghị định, quyết định của Thủ tướng Chính phủ... mở rộng phạm vi diện bao phủ đến hầu hết các đối tượng yếu thế trong xã hội.
Trong lĩnh vực lao động, việc làm, giai đoạn 1997-2000: mỗi năm Việt Nam tạo thêm được 300.000 việc làm mới; giai đoạn 2001-2005: tạo việc làm mới cho 1,7 triệu lao động có việc làm mới/năm; giai đoạn 2006-2013, tạo việc làm cho 1,93 triệu lao động. Nhận thức về việc làm đã thay đổi căn bản: Trước năm 1986, hầu như tất cả mọi người đã coi vấn đề giải quyết việc làm là trách nhiệm của Nhà nước, nhưng sau 1986 nhận thức này đã thay đổi khi coi giải quyết việc làm là trách nhiệm của mọi cấp, mọi ngành, mọi thành phần kinh tế và của người lao động. Người lao động có quyền làm việc ở bất cứ nơi nào mà pháp luật không cấm. Giải quyết việc làm đã được thể chế qua các văn bản pháp luật như: Hiến pháp, Bộ Luật Lao động, Luật Dạy nghề, Luật đưa người lao động đi làm việc nước ngoài theo hợp đồng và mới đây là Luật Việc làm.
Tóm lại, trong suốt quá trình đổi mới, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đã rất quan tâm thực hiện giải quyết các vấn đề xã hội bằng việc ban hành, thực thi hệ thống chính sách xã hội với mục tiêu hướng tới là khắc phục mặt trái của kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, phát triển con người, coi đây là sự thể hiện tính ưu việt, bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Hệ thống chính sách xã hội không những bảo đảm và không ngừng nâng cao đời sống vật chất lẫn tinh thần của nhân dân mà còn góp phần giữ gìn sự ổn định chính trị - xã hội tạo điều kiện để phát triển kinh tế nhanh và bền vững.
Bên cạnh những thành tựu trong thực hiện các chính sách giải quyết các vấn đề xã hội trong suốt 30 năm qua (1986 - 2016), việc tiếp tục đổi mới xây dựng, triển khai thực hiện các chính sách giải quyết các vấn đề xã hội phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đang đặt ra nhiều thách thức cần giải quyết. Đó là việc lựa chọn ban hành hệ thống chính sách như thế nào để tạo động lực phát triển, tăng trưởng quốc gia góp phần đảm bảo công bằng, an sinh xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp CNH-HĐH đất nước? Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội như thế nào? Một loạt vấn đề được đặt ra như:
Sau khoảng 20 năm đầu phát triển với động lực mạnh mẽ, thì trong khoảng 10 năm gần đây, tốc độ phát triển kinh tế - xã hội đã chậm lại, một loạt vấn đề xã hội liên quan đến phát triển bền vững như lao động, việc làm, phân hóa xã hội, tội phạm, tệ nạn xã hội… đang diễn biến phức tạp, khó lường hơn; đạo đức xã hội xuống cấp ở một số mặt; tình trạng văn hóa phẩm độc hại, lai căng đang tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa tinh thần của xã hội; một số tài nguyên vẫn còn bị khai thác bừa bãi, môi trường sinh thái bị ô nhiễm,… biến đổi khí hậu toàn cầu tác động đến Việt Nam gây hậu quả ngày càng nặng nề,…
Nhìn chung các chính sách phát triển đã ban hành vẫn còn thiếu, chưa đồng bộ, nhất quán, chưa đáp ứng kịp sự phát triển của kinh tế xã hội, nhất là để giải quyết kịp thời các vấn đề xã hội đang tồn tại.
Một số bài học kinh nghiệm rút ra từ lý luận và thực tiễn giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình phát triển ở Việt Nam:
Từ lý luận và thực tiễn phát triển của Việt Nam trong thời gian qua có thể rút ra một số kinh nghiệm giải quyết các vấn đề xã hội trong quá trình phát triển như sau:
Một là, cần luôn coi trọng việc giải quyết các vấn đề xã hội trong quá trình phát triển kinh tế; quản lý phát triển kinh tế gắn với quản lý phát triển xã hội hài hòa, bền vững.
So với sự phát triển kinh tế, thì việc phát triển xã hội gắn với đổi mới công tác quản lý xã hội đã thay đổi tương đối chậm hơn. Để có xã hội phát triển bền vững và lành mạnh, thì phải giải quyết tốt, hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội và giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh một cách kịp thời, hiệu quả.
Sự phát triển của mỗi đất nước sẽ không thể thực hiện được nếu không quan tâm đúng mức, giải quyết kịp thời và hữu hiệu các vấn đề xã hội bức xúc, thường nhật cũng như cơ bản, lâu dài gắn với con người và xã hội, đặt trong mối liên hệ không tách rời với các chiều cạnh (lĩnh vực) khác như: kinh tế, chính trị, văn hóa.
Hai là, trong quá trình phát triển, yếu tố con người phải được chú trọng phát triển toàn diện cùng với thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, bảo đảm xã hội, từ trung ương đến cơ sở.
Sự nghiệp đổi mới, cải cách, mở cửa ở mỗi nước cần phải định hướng rõ mục tiêu cuối cùng của mọi sự phát triển là phát triển con người ở mọi cấp độ: cá nhân - cá thể, tập thể - cộng đồng (các nhóm nhỏ và nhóm lớn) và xã hội (dân tộc, quốc gia - dân tộc, cộng đồng dân tộc trong nước và ngoài nước).
Ba là, cần kịp thời đổi mới, xây dựng hệ thống quản lý phát triển xã hội đáp ứng yêu cầu phát triển xã hội hiện đại.
Kinh nghiệm cho thấy, để có hệ thống quản lý phát triển xã hội tốt trong điều kiện hiện nay cần thực hiện tốt cơ chế lãnh đạo quản lý xã hội: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, trong đó tăng cường chức năng dịch vụ công cộng của Chính phủ.
Cần hoàn thiện chức năng xã hội của Nhà nước bằng việc xây dựng mô hình nhà nước dịch vụ công thông qua đổi mới chính sách phát triển dịch vụ công.
Chính phủ cần chuyển đổi chức năng, phương thức quản lý xã hội theo hướng từ chính phủ với chức năng quản lý kinh tế và đầu tư là chủ yếu sang chính phủ kiến tạo các điều kiện phục vụ phát triển cộng đồng, xã hội. Chính phủ và các tổ chức xã hội đều là chủ thể trong lĩnh vực quản lý xã hội và phục vụ công cộng, nhưng Chính phủ và tổ chức xã hội đảm nhiệm những vai trò khác nhau, phát huy những tác dụng khác nhau trong quản lý xã hội. Chức năng chủ yếu của Chính phủ trong quản lý xã hội là phục vụ công cộng, thể hiện trên các phương diện: cung cấp những phục vụ mang tính dân sinh cơ bản như cung cấp những phục vụ về vấn đề việc làm và an sinh xã hội cơ bản; cung cấp những phục vụ mang tính sự nghiệp cộng đồng như giáo dục, khám chữa bệnh, văn hóa cộng đồng; cung cấp các phục vụ cơ bản mang tính công ích như bảo vệ môi trường, xây dựng kết cấu hạ tầng; cung cấp các phục vụ mang tính an toàn cộng đồng như an toàn xã hội, an toàn tiêu dùng,…
Phải cải cách thể chế tài chính, đẩy nhanh tốc độ xây dựng tài chính cộng đồng, nâng cao tỉ trọng đầu tư công dành cho các hạng mục phục vụ xã hội cộng đồng như giáo dục, vệ sinh, việc làm, an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, hạ tầng cơ sở…; tách bạch hóa sự phân quyền giữa Trung ương và địa phương; kiện toàn thể chế tài chính thuế vụ.
Bốn là, phát huy vai trò của cộng đồng, của các tổ chức xã hội nghề nghiệp trong tham gia cùng nhà nước giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh.
Năm là, để hạn chế sự phát triển của các vấn đề xã hội và giải quyết các vấn đề xã hội đã nảy sinh đòi hỏi chính sách phát triển xã hội phải thống nhất kinh tế với xã hội, kinh tế với chính trị, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, với hệ thống các chính sách và mạng lưới an sinh xã hội.
Sáu là, cần cấu trúc lại mô hình phát triển theo hướng chuyển từ tăng trưởng theo chiều rộng sang tăng trưởng theo chiều sâu; chuyển từ mô hình tăng trưởng chủ yếu dựa vào vốn tài chính sang tăng trưởng dựa vào vốn phi tài chính, đặc biệt là vốn con người; từ xem đầu tư phát triển xã hội với tư cách đầu tư cho phúc lợi xã hội sang đầu tư cho phát triển xã hội với tư cách đầu tư cho phát triển vốn xã hội, vốn con người./.

* Học viện Chính trị khu vực III
[1]Báo cáo của Chính phủ Việt Nam về phát triển xã hội tại Hội nghị Thượng đỉnh các quốc gia bàn về phát triển xã hội tại Côpenhaghen (Đan Mạch) vào tháng 03-1995
[2] Bộ KH&CN, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh (2010), Những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội hiện nay - vận dụng cho Việt Nam  (mã số: KX.02.06/06-10): Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu, (chủ nhiệm đề tài: GS,TS Hoàng Chí Bảo), tr.21


Những tin mới hơn