Trang nhất » Tọa đàm » ĐH Thượng Hải - Trung Quốc » 2016


THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI – MỘT SỐ KINH NGHIỆM CỦA VIỆT NAM

Chủ nhật - 09/07/2017 21:26
TS. Lê Văn Phục*
Trải qua 30 năm đổi mới cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, vai trò của chính sách an sinh xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng to lớn. An sinh xã hội không chỉ góp phần thúc đẩy tảng trưởng nền kinh tế, ổn định đời sống của người lao động mà còn góp phần đảm bảo công bằng xã hội. Chính sách an sinh xã hội trực tiếp thể hiện mục tiêu, lý tưởng, bản chất tốt đẹp của chế độ chính trị, kinh tế, xã hội mà Việt Nam đã và đang phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam: “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
1. Một số vấn đề về chính sách an sinh xã hội
Có thể nói rằng chính sách an sinh xã hội có vai trò to lớn đối với sự phát triển xã hội nói chung và từng gia đình – cá nhân nói riêng, cụ thể:
- Thứ nhất, hệ thống chính sách an sinh xã hội là một trong những thành tố góp phần quan trọng trong các chương trình xã hội (trụ cột cơ bản của chính sách xã hội) của một quốc gia là công cụ quản lý của Nhà nước thông qua hệ thống pháp luật, chính sách và các chương trình an sinh xã hội. Mục đích là giữ gìn sự ổn định về xã hội, kinh tế, chính trị của đất nước, đặc biệt là ổn định xã hội, giảm bất bình đẳng, phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội; tạo nên sự đồng thuận giữa các giai tầng, các nhóm xã hội trong quá trình phát triển.
- Thứ hai, hệ thống chính sách an sinh xã hội là nền tảng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thông qua việc áp dụng các cơ chế điều tiết, phân phối thu nhập giữa các khu vực kinh tế, các vùng kinh tế, các nhóm dân cư, an sinh xã hội góp phần đảm bảo thu nhập cho người dân. Hệ thông an sinh xã hội được thiết kế trên cơ sở các nguyên tắc công bằng, đoàn kết ở các mức độ khác nhau còn thể hiện giá trị và định hướng phát triển của một quốc gia. Cách thức thiết kế hệ thống an sinh xã hội chính là sự thể hiện mô hình phát triển xã hội, thể hiện quan điểm đầu tư cho con người.
- Thứ ba, hệ thống chính sách an sinh xã hội góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững thông qua việc điều hòa các “mâu thuẫn xã hội”, đảm bảo xã hội không có sự loại trừ, điều tiết tốt hơn và hạn chế các nguyên nhân nảy sinh mâu thuẫn và bất ổn định xã hội. Nhà nước thông qua các chính sách an sinh xã hội để cân đối, điều chỉnh nguồn lực cho các vùng nghèo, vùng chậm phát triển, tạo nên sự phát triển hài hòa, giảm bớt sự chênh lệch giữa các vùng; mở rộng chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội, hạn chế bất bình đẳng giữa các nhóm dân cư.
- Thứ tư, hệ thống chính sách an sinh xã hội tạo điều kiện cho các gia đình, cá nhân đầu tư tốt hơn cho tương lai, hệ thống an sinh xã hội cơ bản là khắc phục các rủi ro trong tương lai, cho phép các gia đình tiếp cận đến các cơ hội để phát triển. Bên cạnh đó, hệ thống chính sách an sinh xã hội còn góp phần hỗ trợ cho các gia đình quản lý rủi ro. Thông qua các chương trình an sinh xã hội giúp cho các gia đình đương đầu được với những giai đoạn khó khăn trong cuộc sống. An sinh xã hội còn cho phép các gia đình được lựa chọn sinh kế để phát triển với tư cách là một yếu tố bảo hiểm.
2. Thực hiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam qua 30 năm đổi mới.
Ở Việt Nam trong quá trình đổi mới, Đảng Công sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã rất chú ý đến việc xây dựng và thực hiện hệ thống chính sách an sinh xã hội. Về cơ bản hiện nay, Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống cấu trúc chính sách an sinh xã hội tương đối hoàn chỉnh. Có thể khái quát hệ thống chính sách an sinh xã hội Việt Nam bao gồm 5 yếu tố cấu thành như sau:
  1. Chính sách bảo hiểm xã hội (bắt buộc và tự nguyện)
  2. Chính sách bảo hiểm y tế (bắt buộc và tự nguyện)
  3. Chính sách thì trường lao động
  4. Chính sách trợ giúp xã hội
  5. Chính sách ưu đãi xã hội
Gắn liền với quá trình đổi mới đất nước, trong 30 năm qua Việt Nam thực hiện hệ thống chính sách xã hội, bước đầu đã đạt được những kết quả nhất định, góp phần chung vào sự phát triển đất nước.
- Về chính sách lao động, giải quyết việc làm:
Giải quyết việc làm là biện pháp hàng đầu trong chủ động phòng ngừa rủi ro, đảm bảo an sinh xã hội. Trong 30 năm đổi mới Việt Nam thực hiện khá tốt về chính sách này. Trong giai đoạn 1991 – 2000, đã tạo việc làm cho khoảng 12 triệu người; những năm tiếp theo số lượng người được giải quyết việc làm không ngừng được tăng lên, giai đoạn 2001 – 2005 là 6,5 triệu người, thời kỳ 2006 – 2010 là 7,2 triệu, giai đoạn 2011 – 2015 là 7,8 triệu người. Giải quyết việc làm cho người lao động đã góp phần nâng cao thu nhập, bảo đảm người dân có cuộc sống ổn định.
- Chính sách xóa đói giảm nghèo:
Xóa đói, giảm nghèo là một trong những thành công nổi bật của Việt Nam trong 30 năm đổi mới. Theo Báo cáo đánh giá nghèo Việt Nam năm 2012 của Ngân hàng thế giới (WB), hơn 30 triệu người Việt Nam đã thoát khỏi đói nghèo trong hai thập kỷ qua. Nghèo đói ở Việt Nam đã giảm nhanh chóng từ 60% hồi đầu những năm 1990 xuống còn 20,7%; tỷ lệ nhập học tiểu học và trung học cơ sở là hơn 90% và 70%. Theo đánh giá của Tổ chức Nông lương Liên Hợp quốc (FAO), Việt Nam là một trong những nước đạt được thành tích nổi bật trong việc giảm số người bị đói từ 46,9% (32,16 triệu người) giai đoạn 1990-1992 xuống còn 9% (8,01 triệu người) trong giai đoạn 2010-2012, và đã đạt được Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ 1 (MDG1), hướng tới mục tiêu giảm một nửa số người bị đói vào năm 2015.
Tính đến cuối năm 2014, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm từ 1,8-2%/năm, riêng tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm bình quân 5%/năm. Việc thực hiện các chính sách giảm nghèo chung và chính sách giảm nghèo đặc thù tiếp tục được triển khai. Năm 2014, ngân sách đã chi khoảng gần 13 nghìn tỷ đồng để mua cấp thẻ BHYT cho các đối tượng, trong đó gần 10 triệu người nghèo và cận nghèo được hỗ trợ thẻ BHYT; gần 2 triệu lượt học sinh nghèo, học sinh dân tộc thiểu số được miễn giảm học phí, hỗ trợ học bán trú, hỗ trợ chi phí học tập với số tiền hơn 7 nghìn tỷ đồng; Ngân hàng chính sách xã hội đã cho hơn 400 nghìn lượt hộ nghèo vay vốn sản xuất, xuất khẩu lao động, hơn 60 nghìn học sinh nghèo được vay vốn học tập... Các chính sách giảm nghèo đối với các xã trên địa bàn huyện nghèo theo Nghị quyết 30a tiếp tục được thực hiện. 
Theo báo cáo, tỷ lệ hộ nghèo cả nước đã giảm nhanh ở tất cả các địa phương. Năm 2014, tỷ lệ hộ nghèo là 5,97%, cuối năm 2015 còn dưới 5%. Đối với các xã nghèo thuộc diện 30a, tỷ lệ hộ nghèo còn khoảng 28%. Trong công tác xóa đói giảm nghèo, Việt Nam đã đạt được mục tiêu đề ra và được thế giới đánh giá là 1 trong 6 quốc gia hoàn thành mục tiêu trước thời hạn và là điểm sáng về thực hiện mục tiêu giảm nghèo.
- Việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội:
Ở Việt Nam trước thời kỳ đổi mới, đối tượng tham gia Bảo hiểm bắt buộc chỉ gồm những người làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước. Nhưng từ khi đổi mới đến nay, đối tượng này đã dần dần mở rộng ra nhiều doanh nhiều doanh nghiệp thuộc các thành kinh tế ngoài nhà nước. Vì thế số lượng người tham gia bảo hiểm y tế bắt buộc đã từ 4,8 triệu người năm 2001 tăng lên 11 triệu năm 2014.
- Về chính sách bảo hiểm y tế:
Sau nhiều lần Chính phủ ban hành các nghị định Bảo hiểm y tế (vào các năm 1992, 1998, 2005), diện bao phủ bảo hiểm y tế ngày càng được mở rộng. Số lao động tham gia bảo hiểm y tế bắt buộc tại các doanh nghiệp nhà nước tăng lên nhanh chóng. Bên cạnh mở rộng việc đối tượng tham gia Bảo hiểm y tế bắt buộc, Bảo hiểm y tế tự nguyện cũng dần dần lan tỏa đến các đối tượng nhân dân, nhất là nông dân, học sinh, sinh viên… Tính chung, số người tham gia bảo hiểm y tế các loại từ 11,34 triệu người năm 2001 tăng lên 61 triệu người năm 2014, bằng 71% dân số cả nước.
- Về chính sách trợ giúp xã hội:
Ở Việt Nam, những người được hưởng trợ giúp xã hội bao gồm hai đối tượng chủ yếu: những người bị thiệt hại do thiên tai và những người lam cảnh khó khăn do giá yếu, tàn tật, mắc bệnh hiểm nghèo… Việc trợ giúp hai đổi tượng này được thực hiện qua cả canh chính thức của Nhà nước và canh phi chính thức dựa vào sự đóng góp của cộng đồng. Trong 30 năm đổi mới, đặc biệt trong 10 năm gần đây, số người trong nhóm đối tượng được trợ giúp xã hội thường xuyên từ ngân sách nhà nước và mức trợ giúp hàng tháng cho mổi người đều tăng nhanh. Vì thế, kinh phí trợ giúp từ ngân sách nhà nước đã từ 113 tỷ đồng cho 180.000 năm 2001, tăng lên 4.500 tỷ đồng cho hơn 1,6 triệu người năm 2010. Ngoài ra, cả nước có 580 cơ sở nuôi dưỡng khoảng 20.000 người già cô đơn, người tàn tật nặng, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa.
- Về ưu đãi đối với những người có công:
Trải qua quá trình cách mạng lâu dài, nhất là hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ xâm lược…, hàng triệu người Việt Nam đã không sợ khó khăn, hy sinh tính mạng để chiến đầu bảo độc lập Tổ quốc. Khi đất nước hòa bình, thống nhất Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thực hiện nhiều chính sách trợ cấp cho những người có công với đất nước. Tính riêng trong giai đoạn 2005 – 2010 (năm 2010 mức trợ cấp tăng 2,1 lần so với năm 2006). Năm 20010, ngân sách Trung ương đã chi 19.000 tỷ đồng để thực hiện chính sách ưu đải đối với người có công. Trong 2 năm 2014 – 2015, số người có công được hưởng đúng và đủ chính sách ưu đãi xã hội là 1,98 triệu người. Đến nay, đại đa số người có công đã được hưởng trợ cấp đủ đảm bảo mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân cư trên địa bàn cư trú.
 
 Kết quả thực hiện an sinh xã hội (2001 – 2014)
                                                                                Đơn vị tính: triệu người
Các chính sách 2001 2008 2014
1. Chủ động phòng ngừa rủi ro      
- Giải quyết việc làm 1,2 1,4 1,6
- Tỷ lệ hộ ngheo qua từng năm 29% 17% 7%
2. Giảm thiểu rủi ro      
- Số người tham gia bảo hiểm xã hội 4,8 8,5 11,0
- Số người tham gia bảo hiểm y tế 11,34 38,63 61,00
3. Khắc phục rủi ro      
- Số người được trợ giúp xã hội 0,92 1,40 1,6
- Số người có công được ưu đãi   0,81 1,98
3. Một số kinh nghiệm rút ra trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam.
Từ những kết quả đạt được trong việc thực hiện chính sách anh sinh xã hội ở Việt Nam trong 30 năm đổi mới, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cơ bản sau đây:
 - Thứ nhất, Trong các chủ trương, đường lối, chiến lược, sách lược phát triển đất nước, chính sách an sinh xã hội luôn được Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quan tâm hàng đầu, là yếu tố chủ yếu trong quá trình phát triển.
Ở Việt Nam, chính sách an sinh xã hội được bắt đầu thực hiện ngay từ khi thành lập nước (1945) và liên tục được bổ sung, phát triển, hoàn thiện theo luật hóa, hiện đại, khoa học, vì dân. Mô hình và các giải pháp về an sinh xã hội Việt Nam đang thực hiện phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội và có những bước đột phá. Truyền thống dân tộc Việt Nam “lá lành đùm lá rách”, “thương người như thể thương thân” … được Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khơi dậy, phát huy trong thực hiện chính sách an sinh xã hội. Hoạt động an sinh xã hội ở Việt Nam mang đậm tính giai cấp, tính dân tộc, tính nhân dân, tính nhân văn sâu sắc, giữ vai trò quan trọng trong thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước phát triển, góp phần từng bước ổn định và phát triển xã hội, tạo sự đồng thuận xã hội cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Trong thời kỳ đổi mới, cùng với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng đặc biệt chú ý xây dựng và thực hiện hệ thống chính sách an sinh xã hội. Từ Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (1986) đến lần thứ XII (2016), xuyên suốt trong các kỳ Đại hội, an sinh xã hội luôn là một nội dung quan trọng, chủ yếu của hệ thống quan điểm, chính sách kinh tế - xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về an sinh xã hội được thể hiện ở các điểm cơ bản: Một là, an sinh xã hội là một nội dung tổng thể trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa; Hai là, An sinh xã hội vì dân, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, hướng vào mục tiêu phát huy tối đa nguồn lực con người; Ba là, an sinh xã hội tạo động lực cho sự phát triển kinh tế -  xã hội, thúc đẩy tiến bộ và công bằng xã hội; Bốn là, chính sách an sinh xã hội phải phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; Năm là, chính sách an sinh xã hội phải khoa học, hiện đại, được luật hóa và xã hội hóa. Cụ thể:
Trong Văn kiện Đại hội lần thứ IX (2001), Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Khẩn trương mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội. Sớm xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp đối với người lao động thất nghiệp”[1]. Trong Văn kiện, an sinh xã hội được đề cập đến với tư cách là một bộ phận quan trọng của chính sách xã hội, hướng tới giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội: “thực hiện có hiệu quả tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển”[2].
Trong Văn kiện Đại hội lần thứ X (2006), Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương: “Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng, phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tiến tới y tế toàn dân…;Đa dạng hóa các loại hình cứu trợ xã hội”[3]. Đến Đại hội lần thứ XI, vấn đề an sinh xã hội được Đảng cộng sản nâng lên tầm cao mới, với quan điểm mới, toàn diện hơn về nội dung kết hợp tăng trưởng kinh tế với chính sách an sinh xã hội nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới, chủ động, hội nhập quốc tế. Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định quan điểm nhất quán: “Phải coi trọng kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa…”[4]. Trong Văn kiện Đại hội lần thứ XII (2016), Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định và hoàn thiện chính sách an sinh xã hội, quan điểm của Đảng tại đại hội XII thể hiện đầy đủ và toàn diện hơn về chính sách an sinh xã hội, nội dung chủ yếu là: Một là, mở rộng đối tượng và nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách an sinh xã hội đến mọi người dân, tạo điều kiện để người dân hưởng thụ chính sách an sinh xã hội; thực hiện các giải pháp quản lý để đảm bảo sự hài hòa trong hưởng thụ chính sách giữa các vùng, giữa các đối tượng, phù hợp với các giai tầng trong xã hội. Hai là, kịp thời kiểm soát rũi ro, quan tâm thích đáng và trợ giúp có hiệu quả các tầng lớp, bộ phận yếu thế trong xã hội, tầng lớp xã hội dễ tổn thương, đồng bào các dân tộc thiểu số vùng cao, vùng sâu, vùng xa; thực hiện tốt chính sách hổ trợ nhà ở cho các đối tượng chính sách, người nghèo; thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm toàn dân. Ba là, chuyển từ hổ trợ nhân đạo sang đảm bảo quyền an sinh xã hội của công dân. Bốn là, đổi mới chính sách giảm nghèo, tiếp cận phương pháp do lường nghèo đa chiều nhằm đảm bảo an sinh xã hội[5].
- Thứ hai, hệ thống luật pháp, chính sách về an sinh xã hội ngày càng được bổ sung thường xuyên, xây dựng mới và hoàn thiện phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; nhiều văn bản pháp luật được thể chế hóa ngày càng đồng bộ hơn; nhiều chương trình mục tiêu quốc gia được triển khai và sát với thực tiễn cuộc sống. Cụ thể: Thông qua Luật phổ cập giáo dục tiểu học 1991, Bộ luật Lao động 1994 (sửa đổi, bổ sung vào các năm 2002, 2006, 2007, 2012), Luật Giáo dục 1998, Luật Bảo vệ môi trường 2002, Luật Giáo dục 2005, Luật Bảo hiểm xã hội 2008, Luật bảo hiểm y tế 2009 (sửa đổi năm 2014); Pháp lệnh quy định danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng 1994, Pháp lệnh người có công 2005 (sửa đổi, bổ sung 2007); các chương trình mục tiêu quốc gia 126, 133,135 về giải quyết việc việc làm, xóa đói giảm nghèo trong cả nước, hổ trợ phát triển kinh tế - xã hội tại những xã đặc biệt khó khăn 1998 – 2000; Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo 2001 – 2010; Chiến lược gia về chăm soc sức khỏe sinh sản; Định hướng giảm nghèo bền vững giai đoạn 2011 – 2020…
- Thứ ba, hệ thống bộ máy tổ chức thực hiện chính sách an sinh xã hội từng bước được thiết lập và điều chỉnh theo hướng tách chức năng quản lý nhà nước với chức năng cung cấp dịch vụ, tạo điều kiện cho hệ thống an sinh xã hội hoạt động phù hợp với cơ chế kinh tế mới. Đội ngũ cán bộ tổ chức triển khai thực hiện chính sách an sinh xã hội ngày càng được tăng cường cả về số lượng và chất lượng.
Để thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, Việt Nam chú ý hình thành đội ngũ cán bộ hoạt động xã hội chuyên nghiệp trên tất cả các cấp từ Trung ương đến địa phương, đặc biệt chú ý đội ngũ cán bộ cấp xã – nơi gần với người dân nhất, đặc biệt là nông dân. Thường xuyên đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, viên chức đạt các tiêu chuẩn và đảm bảo vận hành hệ thống quản lý theo yêu cầu điện tử hóa. Trong chế độ, chính sách cho những người làm công tác an sinh xã hội, Việt Nam đã chú ý thực hiện những chính sách đặc thù để tạo động lực và khuyến khích đội ngũ cán bộ, viên chức làm việc tận tụy, có trách nhiệm trong ngành an sinh xã hội.
- Thứ tư, chú trọng công tác vận động, tuyên truyền để nâng cao nhận thức về chính sách an sinh xã hội cho cả phía người quản lý và người dân. Trong công tác tuyên truyền vận động luôn tạo ra sự thống nhất, đồng thuận cao trong Đảng và Nhà nước cũng như toàn xã hội về thực hiện tốt an sinh xã hội. Đã tạo cho mọi người nhận thức đúng đắn về an sinh xã hội – an sinh xã hội là công cụ quan trọng để thực hiện công bằng xã hội, bảo đảm sự ổn định và phát triển bền vững. An sinh xã hội không phải là công việc riêng của Nhà nước, mà là công việc của tổ chức xã hội, của toàn dân, từ đó người dân ngày càng nhận thức đúng đắn về quyền lợi và trách nhiệm của mình trong tham gia hệ thống chính sách an sinh xã hội.
- Thứ năm, Việt Nam luôn chú trọng xã hội hóa các hoạt động về an sinh xã hội. Khi nói đến xã hội hóa tức là đề cập đến việc huy động các lực lượng xã hội, lực lượng kinh tế cùng mọi người dân tham gia vào một công việc nào đó. Do vậy, xã hội hóa không mang tính nhất thời mà cần đặt thành chiến lược nói chung. Xã hội hóa không chỉ khi đất nước còn nghèo, khan hiếm nguồn lực mà ngay cả khi kinh tế phát triển thì cũng cần huy động đóng góp toàn xã hội. Kinh nghiệm ở Việt Nam, để huy động kinh phi thực hiện chính sách an sinh xã hội thì huy động từ các nguồn khác nhau, bao gồm: nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức phi chính phủ, nước ngoài, từ người dân. Chẳng hạn, trong hệ thống chăm sóc sức khỏe cho nhân dân thì huy động sự tham gia của bệnh viện công và bệnh viện tư; trong thực hiện bảo hiểm xã hội thì huy động sự tham gia của cả người lao động và người sử dụng lao động; trong cứu trợ xã hội, không chỉ là công việc của nhà nước mà còn huy động các tổ chức, ca nhân cùng tham gia…
Tóm lại, An sinh xã hội là hệ thống chính sách xã hội cơ bản của mổi quốc gia trong quá trình phát triển. Tổ chức thực hiện tốt hệ thống chính sách này có ý nghĩa quan trọng đến việc đảm bảo ổn định xã hội, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, xây dựng xã hội văn minh, hiện đại. Ở Việt Nam thực hiện chính sách an sinh xã hội được Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đặc biệt quan tâm. Trong quá trình đổi mới đất nước, cùng với đổi mới chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, Việt Nam không ngừng bổ sung, hoàn thiện và đẩy mạnh thực hiện chính sách an sinh xã hội. Cho dù chặng đường 30 năm thực hiện chính sách an sinh xã hội là không dài, nhưng bước đầu Việt Nam đã đạt được những kết quả quan trọng, những kết quả đó không chỉ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, góp phần thực hiện công bằng xã hội, mà còn là thực tiễn sinh động chứng minh tính ưu việt của con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Việt Nam lựa chọn./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
 
1. Phạm Xuân Nam. Một số vấn đề phát triển xã hội Việt Nam trong tiến trình đổi mới – luận cứ và giải pháp, NXB CTQG, HN 2015.
2. Mai Ngọc Cường (chủ biên). Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam, NXB CTQG, HN 2009.
3. Lê Quốc Lý (chủ biên). Chính sách an sinh xã hội – thực trạng và giải pháp, NXB CTQG, HN 2014.
4. Mai Ngọc Anh. An sinh xã hội đối với nông dân trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, NXB CTQG, HN 2010.
5. Nguyễn Duy Dũng. Giải quyết an sinh xã hội của Thái Lan, Malaixia, Philipin và bài học kinh nghiệp cho Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, HN 2015.
  1.  


[1] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB CTQG, HN 2001, tr. 105.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB CTQG, HN 2001, tr.124.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB CTQG, HN 2006, tr.229.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB CTQG, HN 2011, tr. 316.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB CTQG, HN 2016, tr.137.


Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn