Hôm nay : 545
Tháng hiện tại : 15202
Tổng lượt truy cập : 1749703
TỰA
Kính thưa quí độc giả,
Bản sách Ngọc Hạp Chính Tông(1) này là một bản sách cổ từ lâu đời bằng chữ Nho, mà thuở xưa các cụ thường dùng để trạch tuổi, coi ngày, coi giờ, coi cưới gả, coi làm nhà, coi xuất hành, mở cửa hàng, coi phương hướng và so đôi tuổi trai và gái kết hôn cùng nhau cho được phù hạp về cung mạng thuộc Ngũ hành khắc và hạp.
Bản sách Ngọc Hạp là một bản sách rất quí báu, hậu thế cũng chưa ai làm nối theo mà bỏ không dùng bản ấy làm gốc. Nhà làm sách Ngọc Hạp và Bát Trạch(2) đã thông Thiên văn rành Địa lý, am hiểu vũ trụ biến đổi, lại rành rẽ về Lịch số học mới làm ra được; phải hiểu cả Âm Dương thuộc Ngũ hành khắc hạp v.v...
Tôi, ngày nay đem ra trình bày bản sách này được là vì trong gia đình tôi đã có sẵn bản cũ và tôi cũng nhờ học thêm với nhiều người trong mười mấy năm nay, cho nên sự kinh nghiệm của nghề nghiệp làm cho tôi phấn khởi trong lòng, nên tôi mới dám đem ra trình bày hầu cống hiến quí vị coi theo mà dùng trong khi cần các việc mà tôi đã kể trên. Và tôi không phải có ý chí khoe khoang, nhưng sự thật tôi đã từng gầy dựng cho nhiều gia đình danh vọng về khoa so đôi tuổi cưới gả đặng thành tựu đàng hoàng hiện nay trong cả giới văn và võ.
Trong khi trình bày quyển Ngọc hạp này, tôi có hai điều mong ước: Một, là bây giờ nền Nho học càng ngày càng thối bộ, tôi muốn lưu lại một đôi phần trong khoa này cho quí vị nào có cần đến cũng đỡ bớt sự phiền phức. Hai, là tôi đã kinh nghiệm thật đúng, cho nên tôi mới mạnh dạn trình bày để cho những vị tân học ngày nay có dịp khảo xét thêm cho biết coi người xưa truy nguyên có đúng hay không. Về điểm này tôi xin để thời gian chứng minh sự thật... chớ hiện nay phần đông vì khoa học tiến mạnh, làm cho thiên hạ say mê nền Tân học, còn cái gì thuộc về cũ - mà nhất là những gì nghe ra như huyền bí - thì người ta có dạ nghi ngờ, mà nghi ngờ cũng có lý... Riêng tôi, tôi lấy lương tâm chức nghiệp mà hoàn thành quyển Ngọc hạp này.
Tôi không thêm một lời nào theo ý riêng của tôi, và tôi không dám tưởng tượng mà tạo ra một chữ.
Và khi dứt lời, tôi xin kính cẩn cảm ơn những vị nào đã để mắt xem quyển sách này trong khi cần đến nó.
Nam Mô A Di Đà Phật
Viên Tài Hà Tấn Phát
Tu sĩ Tịnh Độ Tông Việt Nam
Kính tựa
(1) Tôi có chụp hình quyển Ngọc Hạp Chính Tông để làm bằng và có mấy trương của quyển Bát Trạch ở trương kỷ
(2) Sách Bát Trạch cũng chuyên coi về Địa lý.
1.- LỄ NGHI
Lễ Nghi, cũng như Luân Lý và Luật Pháp, là những lề thói thường dùng lâu rồi thành thói quen có những sự kiện để đối đãi với nhau trong một xã hội cốt sao cho phải lẽ. Có câu rằng: "Phép không có chỗ nào là chẳng kính, lễ không có chỗ nào là chẳng nghiêm...".
Ngày xưa, cuộc đời được thái bình nhàn nhã, trên thì vua quan xa xí, dưới thì đám phú hào cũng bày vẽ nọ kia.
Người xưa chế lễ cũng tùy theo hoàn cảnh xã hội, cốt sao cho thích hợp với tâm lý mọi người.
Bóng thời gian qua, những động lực dẫn đạo của xã hội rất mạnh, đã làm rung chuyển hết thảy những cái gì xây dựng trên nền lễ giáo của thời xưa.
Những lễ nghi phức tạp và có những thói tục rườm rà phiền phức của thời xưa mà bây giờ thành ra trở ngại và gay go.
Như thời xưa, thì cuộc hôn nhân của con cái, quyền định đoạt đều do nơi cha mẹ, phận làm con không được cãi. Vì xưa kia chịu ảnh hưởng của giáo lý Khổng, Mạnh cũng có phần ràng buộc khó khăn lắm, nhưng dầu sao đi nữa, cũng ít xảy ra những tình tệ như ngày xưa.
Ngày xưa, việc hôn nhân của con do nơi cha mẹ định liệu, vì cha mẹ là người có kinh nghiệm hơn, ấy cũng là điều cần lắm. Vả lại, thời xưa đạo làm con lớn lên cốt lo ăn học cho thành tài để lập thân báo hiếu và trả nghĩa chung cho xã hội hưởng nhờ, chớ những thói dâm loàn, ong bướm cũng ít ai nghĩ đến... Còn cha mẹ mà giành quyền lo lắng cho con, chỉ muốn có một điều là:
"Nuôi con những ước về sau,
Trao tơ phải lứa, gieo cầu đáng nơi".
2.- HÔN NHÂN
Cưới vợ bạn sẽ chọn thiếu nữ nào?
Người thiếu nữ phải dịu dàng nhưng không yếu đuối, người thiếu nữ phải có cương nghị nhưng... không quá cứng rắn với một thân hình tượng trưng phái yếu, thiếu nữ cần có nghị lực để chế ngự mình, hay là để đối phó với bên ngoài; sự dịu dàng và cương nghị phải đồng đều. Thiếu cương nghị thành ra yếu đuối, mà quá rắn rỏi thành ra nông nổi.
Nếu người thiếu nữ được học rộng thì tốt, được đẹp càng hay, giàu nghèo không sao, chẳng quan hệ gì. Sự khôn ngoan có cần không? Có thì được lắm chứ,nhưng tình yêu có khi cần những sự hiền đức, liêm chính, thanh tịnh hơn sự khôn ngoan; mà liêm chính, hiền đức và thanh tịnh đó mới là sự khôn ngoan trên các cái khôn ngoan.
Lấy chồng, cô sẽ chọn thanh niên nào?
Tấm lòng và sở thích của cô đã định cho cô phải tránh những người thế nào và chọn thanh niên như thế nào?
Cô có nghĩ chăng người chồng của cô sẽ phải là một thanh niên mạnh khỏe, có nghị lực, thích hoạt động, có một cơ sở? Được như thế, đời mới có thể được bảo bọc, che chở. Sức khỏe là nền tảng của nguồn nghị lực,nhưng không phải là bảo đảm của sự hoạt động. Một thanh niên có nhiều nghị lực nếu không biết ứng dụng cho thích hợp, cũng thành tai hại. Thế nên, ngoài sức mạnh của thân thể thanh niên cần có một nghị lực ở tinh thần, để biết tự chủ, khống chế mình trở thành hữu ích và người tốt.
Nếu có một người chồng biết tận tụy vì cô, cô là người tốt phúc. Người đàn bà cần có những đức tánh về trung tín và hy sinh mà đàn ông ít khi sánh bằng. Các cô phải chú ý về điều này để tạo hạnh phúc trong gia đình cho những ngày mai hậu.
Từ tình ái đến hôn nhân
Ái tình không đi đến hôn nhân có thể trọn vẹn không? Nhất định là không? Vì yêu nhau mà chẳng có ý định cùng nhau chung sống để đi đến hôn nhân là yêu một cách thoáng qua, yếu đuối và giả dối.
Cụ Nguyễn Du rất am hiểu tâm lý và cũng hiểu lẽ biến dịch, cho nên có những câu:
E khi chắp cánh liền cành,
Mà lòng rẽ rúng sẵn dành một bên.
Bởi thế cho nên bản phận của người con gái có những câu dặn lòng:
Đêm khuya gác bóng buồng the,
Ngọc vàng mình phải nâng niu lấy mình.
hay là:
lời thệ hải minh sơn,
Làm con trước phải đền ơn sanh thành.
Vậy ái tình mà không kết thúc bằng hôn nhân là không thiêng liêng, không phải ái tình chân chính, chỉ là một trạng thái dục vọng.
Yêu nhau mà không có ý định cùng nhau chung sống từ lúc má đỏ đầu xanh, cho đến cơn da mồi tóc bạc, đó là sự phỉnh gạt các cô, các cô hãy cẩn thận.
Bây giờ là đời mới, tôi cũng rất tán thành sự tự do chọn lựa rồi đi đến hôn nhân chân chính; những sự luyến ái quá tự do mà tôi tưởng rất có tệ hại ở tương lai, các cô cũng nên tránh. Các cô nghĩ sao?
Viên Tài
Lương duyên do túc đế,
Giai ngẫu tự nhiên thành.
(Tục ngữ)
Phải duyên ngàn dặm cũng gần,
Trái duyên dẫu gặp mấy lần cũng xa.
(Ca dao)
Người ta trong đạo vợ chồng,
Hoa thơm phong nhụy trăng vòng tròn gương.
(Kim Văn Kiều)
Râu tôm nấu với ruột bầu,
Chồng hòa vợ thuận, gật đầu khen ngon.
Ca dao.
Trai thì trung hiếu làm đầu,
Gái thời tiết hạnh là câu trau mình.
(Lục Vân Tiên)
Theo Lịch số học của Á Đông và cũng gọi là Tiên Thiên Bát Quái.
Nguyên văn của Bát Quái thuộc Ngũ Hành như vầy:
Càn tam liên, Tây Bắc, Tuất Hợi.
Khản trung mãn, chính Bắc, đương Tý.
Cấn phúc quản, Đông Bắc, Sửu Dần.
Chấn ngưỡng bồn, chính Đông, đương Mão.
Tốn hạ đoạn, Đông Nam, Thìn Tỵ.
Ly trung hư, chính Nam, đương Ngọ.
Khôn lục đoạn, Tây Nam, Mùi Thân.
Đoài thượng khuyết, chính Tây, đương Dậu.
Cung Càn, hướng Tây Bắc, thuộc tuổi Tuất Hợi.
Cung Khảm, chính hướng Bắc, thuộc tuổi Tý
Cung Cấn, hướng Đông Bắc, thuộc tuổi Sửu, Dần.
Cung Chấn, chính hướng Đông, thuộc tuổi Mão.
Cung Tốn, hướng Đông Nam, thuộc tuổi Thìn, Tỵ.
Cung Ly, chính Nam, thuộc tuổi Ngọ.
Cung Khôn, hướng Tây Nam, thuộc tuổi Mùi, Thân.
Cung Đoài, chính Tây, thuộc tuổi Dậu.
Đây là giải nghĩa đủ tám cung là hình thể của quả địa cầu theo Lịch số học Á Đông (tức hình Bát Quái). Mỗi cung thuộc về hướng nào và hướng ấy thuộc về tuổi nào (là Địa Chi nào).
- Càn: Trời (le ciel).
- Khảm: Nước (les liquides: l'eau).
- Cấn: Núi (les plissements: plateaux et montagnes).
- Chấn: Điện (l'électricité: tonnerre et foudre).
- Tốn: Gió (l'air: le vent).
- Ly: Lửa (la chaleur: le feu).
- Khôn: Đất (la terre).
- Đoài: Đầm (les dépressions: mares et lacs).
HÌNH THỂ CỦA QUẢ ĐỊA CẦU
Thuộc Ngũ Hành(1)
- Cung Càn, Đoài thuộc hành Kim.
- Cung Khảm, thuộc hành Thủy.
- Cung Khôn, Cấn thuộc hành Thổ.
- Cung Ly thuộc hành Hỏa.
- Cung Chấn, Tốn thuộc hành Mộc.
Trên đây là giải nghĩa tám cung, cung nào thuộc về hành nào trong Ngũ Hành.
(1) Bát Quái (tám cung) nghĩa là cũng như hình thể của quả địa cầu là trái đất chúng ta đang ở đây. Nơi tròng giữa có hai thể Âm và Dương giao nhau mà sanh tồn, cũng như điện lực phải có dây âm và dây dương (dây nóng và dây nguội) điều hòa mới phát ra điện lực (Négatif et Positif).
MƯỜI THIÊN CAN HIỆP NHAU
thuộc về Ngũ Hành
- Giáp hiệp Ất thuộc về Mộc.
- Bính hiệp Đinh thuộc về Hỏa.
- Mậu hiệp Kỷ thuộc về Thổ.
- Canh hiệp Tân thuộc về Kim.
- Nhâm hiệp Quý thuộc về Thủy.
MƯỜI HAI ĐỊA CHI XUNG NHAU
thuộc về Ngũ Hành
- Dần Mão thuộc Mộc.
- Tỵ Ngọ thuộc Hỏa.
- Thân Dậu thuộc Kim.
- Tý Hợi thuộc Thủy.
- Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thuộc Thổ.
THIÊN VĂN LẬP THÀNH
THIÊN CAN(1) - ĐỊA CHI(2)
- Thiên Can: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh , Tân, Nhâm, Quý là mười Thiên Can.
- Địa Chi: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi là mười hai Địa Chi.
(1) Can: tức là Cán hay gốc, Thiên Can là gốc tự trời.
(2) Chi: tức là Chi là Nhánh, Địa Chi là nhánh mọc ở Đất.
CAN, CHI THUỘC ÂM DƯƠNG(1)
* Thiên Can:
- Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm thuộc Dương.
- Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý thuộc Âm.
* Địa Chi:
- Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất thuộc Dương.
- Sửu, Mão, Tỵ, Mùi, Dậu, Hợi thuộc Âm.
(1) Theo luật sinh hóa của năm thể giao nhau mà sanh tồn, gọi là "Ngũ Hành", thì Thái Âm chịu ảnh hưởng của Thái Dương, gọi tắt là Âm Dương.
Để sanh ra vạn vật gồm cả loài người, cũng như điện lực cần phải có dây nóng và dây nguội mới phát điện được. Trong thân thể ta cũng có đủ ngũ hành là: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa và Thổ. Nếu thiếu một thể nào thì ta phải bệnh hay chết, mà khoa học hiện tại vẫn chứng minh như thế.
Như điện lực thì phải có dây Âm và dây Dương (dây nóng và dây nguội) (Négatif và Positif) mới sanh ra lửa đặng. (La raison de ceci "nombre 10" est que les nombres 1 et 0 indiquent les Forces primaires, positives et négatives de l'Univers. Ces forces peuvent également s'appeler "mâle" et "femelle". "1 = positif; 0 = négatif"). (Lý số học).
CAN, CHI THUỘC NĂM HÀNH VÀ BỐN PHƯƠNG, BỐN MÙA
* Thiên Can:
- Giáp Ất thuộc hành Mộc là phương Đông.
- Bính Đinh thuộc hành Hỏa là phương Nam.
- Mậu Kỷ thuộc hành Thổ là Trung ương (luồng giữa).
- Canh Tân thuộc hành Kim là phương Tây.
- Nhâm Quý thuộc hành Thủy là phương Bắc.
* Địa Chi:
- Dần, Mão, Thìn thuộc hành Mộc giữ mùa Xuân là phương Đông.
- Tỵ, Ngọ, Mùi thuộc hành Hỏa giữ mùa Hạ là phương Nam.
- Thân, Dậu, Tuất thuộc hành Kim giữ mùa Thu là phương Tây.
- Hợi, Tý, Sửu thuộc hành Thủy giữ mùa Đông là phương Bắc.
Bốn Chi: Thìn, Mùi, Tuất, Sửu nói về vị đơn thuộc hành Thổ, là bốn tháng quí (bốn tháng cuối mùa là tháng Ba, tháng Sáu, tháng Chín và tháng Chạp); bốn phương duy (bốn phương giáp: Đông Bắc, Tây Bắc, Đông Nam, Tây Nam).
MƯỜI HAI THÁNG DỰNG ĐỊA CHI
Nước Trung Hoa từ đời vua Phục Hy mới làm lịch, phân vòng trời đất làm mười hai phía, lấy mười hai Địa Chi phối với mươi Thiên Can mà đặt tên phía, định một năm mười hai tháng, căn cứ theo sao Bắc Đẩu chuyển lần, hễ dựng vô mỗi phía là một tháng. Bắc đầu từ phía Dần như vầy:
- Tháng Giêng: dựng phía Dần, (là tháng Dần).
- Tháng Hai: dựng phía Mão, (là tháng Mão).
- Tháng Ba: dựng phía Thìn, (là tháng Thìn).
- Tháng Tư: dựng phía Tỵ, (là tháng Tỵ).
- Tháng Năm: dựng phía Ngọ, (là tháng Ngọ).
- Tháng Sáu: dựng phía Mùi, (là tháng Mùi).
- Tháng Bảy: dựng phía Thân, (là tháng Thân).
- Tháng Tám: dựng phía Dậu, (là tháng Dậu).
- Tháng Chín: dựng phía Tuất, (là tháng Tuất).
- Tháng Mười: dựng phía Hợi, (là tháng Hợi).
- Tháng Mười Một: dựng phía Tý, (là tháng Tý).
- Tháng Chạp: dựng phía Sửu, (là tháng Sửu).
Còn phối với mười Thiên Can thì bắt đầu từ tháng Giáp Dần rồi chuyển lần lần đi, tới tháng Mười Một là Giáp Tý, tháng Chạp là Ất Sửu, qua tháng Giêng năm sau là Bính Dần...
Năm thì lấy hai chữ đầu Can, Chi mà đặt, khởi từ năm Giáp Tý rồi cũng chuyển lần đi, cứ mười năm là một Giáp, nghĩa là trải suốt mười Can, qua năm thứ mười một là Giáp Tuất; trải qua sáu Giáp tới năm sáu mươi là Quý Hợi (gọi là Lục Thập Hoa Giáp), thì qua năm sáu mươi mốt trở lại là Giáp Tý (Lịch Trung Hoa và lịch Việt Nam ta ngày nay đều theo như thế).
HAI MƯƠI BỐN TIẾT KHÍ
Lịch cổ rằng:
- Tháng Giêng là tiết Lập Xuân, tiết Vũ Thủy.
- Tháng Hai là tiết Kinh Trập, tiết Xuân Phân.
- Tháng Ba là tiết Thanh Minh, tiết Cốc Vũ.
- Tháng Tư là tiết Lập Hạ, tiết Tiểu Mãn.
- Tháng Năm là tiết Mang Chưởng, tiết Hạ Chí.
- Tháng Sáu là tiết Tiểu Thử, tiết Đại Thử.
- Tháng Bảy là tiết Lập Thu, tiết Xử Thử.
- Tháng Tám là tiết Bạch Lộ, tiết Thu Phân.
- Tháng Chín là tiết Hàn Lộ, tiết Sương Giáng.
- Tháng Mười là tiết Lập Đông, tiết Tiểu Tuyết.
- Tháng Mười Một là tiết Đại Tuyết, tiết Đông Chí.
- Tháng Chạp là tiết Tiểu Hàn, tiết Đại Hàn.
Cứ mươi lăm ngày là một tiết, từ lúc ban sơ thì như vậy, sau vì ngày thiếu, tháng nhuần mà biến đi. Có năm tiết Lập Xuân ở trong cuối tháng Chạp năm trước, các tiết cũng lần lần xê dịch, cứ trải qua bốn năm lại hườn như trước; nghĩa là tiết Lập Xuân năm thứ năm lại ở đầu tháng Giêng.
Người ta không lẽ sống u minh trong cõi thời gian không cùng không tận này mà chẳng hay rằng mình đã trường cửu được bao lâu. Vũ trụ có hai cái không cùng là Không gian và Thời gian (l'Espace et le Temps). Đã biết dùng thước để đo Không gian, tất phải nghĩ ra cách gì để đo Thời gian. Bởi thế, bao nhiêu thế hệ, học giả nối nhau tìm cách đặt lịch (calendrier) nhưng lấy gì làm bản vị (unité)? Đó là then chốt của phép đo thời gian; biết được điều ấy tức là tìm ra cách làm lịch.
Xét nghiệm những hiện tượng của mặt trăng, mặt trời và cõi đất, đều khiến người xưa phải để ý trước nhất là sự thay đổi của bốn mùa luân lưu trong một khoảng thời gian gần như nhất định.
Sự thay đổi của bốn mùa có ảnh hưởng trực tiếp ngay đến bản thân, nên dù người có lãng ý đến đâu, người tối dạ đến đâu cũng nhận thấy.
Tiếp theo những ngày rét thấu xương vừa hết, một bầu trời đầm ấm hình như thấm nhuần vào thân thể ta một khí vị rất êm đềm nhẹ nhàng dễ chịu.
Rồi ngày qua thấm thoát, lại đến độ nóng thiêu người... Chỉ ít lâu, mặt trời bớt nóng, người ta đã trút được cái khí nồng nực nặng nề mà sống thư thái những ngày nắng dịu khí buồn và những đêm gió mát trăng trong. Những cái vẻ buồn ngày một tăng thêm mà thành ra hãm cái hơi mát ngày một dịu lần mà thành ra lạnh.
Người ta bước sang mùa rét được ít lâu, rồi lại đến ngày tươi đầm ấm.
Bốn mùa cứ thay đổi như thế không ngừng, ảnh hưởng trực tiếp ngay đến thân thể con người, khiến người xưa để ý đến trước nhất và nhận ra sự luân chuyển rất đều đặn của thời tiết hình như đã hạn định trong một khoảng bao nhiêu ngày đó.
Tất cả cái then chốt trong việc làm lịch là biết được đích xác có bao nhiêu ngày trong bốn mùa ấy.
Điều thứ hai đã làm chú ý người xưa là sự luân chuyển của bốn mùa, có ảnh hưởng thiết thực đến sống hàng ngày của con người và hoa quả, cây cối. Đã đến khi không thể sống nhàn nhã tự nhiên hái hoa quả rừng mà đủ ăn được, thì bấy giờ lại càng thấy sự cần thiết làm lịch để biết thời tiết mà trồng trọt, chăn nuôi.
Những hiện tượng trong trời đất và cảnh vật chung quanh ta đều theo bốn mùa trở đi trở lại có thường độ, người xưa đếm ngay ra, ám nhận thấy thường độ ấy vào khoảng trên hay dưới 360 ngày chi đó.
Nhưng làm lịch không thể nói phỏng chừng như thế được, phải biết đích xác bao nhiêu ngày là tròn hết một vòng luân chuyển của bốn mùa.
Một sự nhận xét nông nổi tính ra vòng luân chuyển ấy ở trong khoảng 12 lần trăng tròn. Lại đến xem bao nhiêu ngày là một lần trăng tròn, người ta thấy đúng 29 ngày rưỡi.
Vậy 12 lần trăng tròn là: 29,5 x 12 = 354 ngày. Người ta liền lấy cái khoảng 12 lần trăng tròn là 354 ngày làm một độ lịch gọi là một năm. Mỗi lần trăng tròn là một tháng, người Tàu gọi mặt trăng là Nguyệt, nên cũng gọi tên tháng là Nguyệt.
Vì mỗi tuần trăng tròn là 29 ngày rưỡi lẻ loi, nên nhà làm lịch xê xích lại cho chẵn, cứ một tháng thiếu 29 ngày, lại có một tháng thừa là 30 ngày.
Âm lịch 354 ngày dùng được ít lâu, người ta nhận thấy nó ngắn quá, năm tháng chóng hết, mà thời tiết cứ ngày càng lùi chậm lại. Theo lịch thì là giữa Hè rồi mà trời chưa bức, đã sang Đông rồi mà trời chưa rét.
Quyển lịch năm thiếu ấy rất tai hại cho việc canh nông, sự chăn nuôi, trồng trọt, trái thời tiết sẽ làm giảm sút số hoa lợi; cuộc sinh hoạt vì đó thiếu thốn khó khăn. Cho nên ở những nơi dân cư trù mật, việc canh nông rất là hệ trọng, người ta đã phải cố gắng xem xét hiện tượng của vũ trụ và các vầng tinh tú để tìm thấy một quyển lịch đúng thời tiết.
Từ thời đại rất sớm, người Trung Hoa, người Chaldéen đã rất giỏi về Thiên văn học.
Âm lịch 354 ngày ngắn quá, người ta thí nghiệm thêm lần ngày ra khi tới số 365 ngày thì thấy thời tiết vừa sát đúng
Sử ký Tàu chép: "Vua Thuấn sai họ Hy, họ Hoa xét tượng số các vầng nhựt nguyệt và tinh tú để làm lịch cho dân biết thời tiết mà trồng trọt, chăn nuôi".
Một quyển số học tối cổ của Trung Hoa là Kinh Dịch nói về nguyên lý của vũ trụ và thế giới kể lại rằng: "Vua Phục Hy lên đỉnh núi, xét sự vãng lai của tinh tú, suy về lý do của vũ trụ rồi lập thành một bản đồ 64 quẻ, nói về sự biến hóa và sự luân hồi của thế giới vạn vật".
Hiền triết đời sau cắt nghĩa thêm cho dễ hiểu: "Dịch hữu Thái Cực thị sanh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sanh tứ Tượng, Tứ Tượng sanh Bát Quái" (Chu Tử).
Dịch nghĩa: Nguyên lý của mọi sự hóa sinh trong vũ trụ là cái lý độc nhất, tuyệt đối, tự hữu, hằng hữu, vô thủy, vô chung, mà ta tạm gọi là Thái Cực (L'Être suprême, absolu en soi et éternel: Dieu). Do lý Thái Cực ấy sinh ra hai thể tương phản mà ta tạm gọi là Âm và Dương (deux forces opposéesL le Positif et le Négatif).
Hai thể tương phản giao nhau thành ra bốn hiện tượng của thế giới là:
- Lão Dương (vieux soleil).
- Lão Âm (vieille lune).
- Thiếu Dương (astres mineures).
- Thiếu Âm (l'atmosphère: làn không khí bao bọc địa cầu).
Bốn hiện tượng ấy lại giao nhau mà sanh ra tám thể:
1.- Càn: Trời (le ciel).
2.- Khôn: Đất (la terre).
3.- Khảm: Nước (les liquides: l'eau).
4.- Ly: Lửa (la chaleur: le feu).
5.- Chấn: Điện (l'électricité: tonnerre et foudre).
6.- Tốn: Gió (l'air: le vent).
7.- Cấn: Núi (les plissements: plateaux et montagnes).
8.- Đoài: Đầm (les dépressions: mares et lacs).
Những thể ấy giao nhau mà hóa sanh ra vạn vật.
Về Lý học, nói đến đây là đủ hiểu đại khái. Nhưng về số học người ta còn tính thêm nhiều: Tám quái giao nhau thành 64 quẻ, mỗi quẻ lại chia làm 6 hào, thành ra:
- 6 hào x 64 = 384 hào.
Quái khí khởi từ quẻ Trung Phu, trừ quẻ Chấn, quẻ Ly, quẻ Đoài và quẻ Khảm là bốn quẻ chính, có 24 hào làm chủ 24 khí, còn thừa:
- 64 quẻ - 4 = 60 quẻ.
Mỗi quẻ là 6 ngày 7 phân, nhân ra:
- 6,7 x 60 = 360 ngày 420 phân.
Mỗi ngày có 80 phân, vậy 420 phân tức là 5 ngày 20 phân hay là 5 ngày và một phần tư ngày.
Biết được số ấy, người ta nhận thấy rằng Âm lịch ngắn mất:
- 365 ngày 1/4 - 354 = 11 ngày 1/4.
Như thế, theo Âm lịch cứ một năm 12 tháng thiếu mất 11 ngày 25. Vậy trong 2 năm 7 tháng rưỡi tức là 31 tháng rưỡi, thì thiếu vừa vặn 29 ngày 50.
- (12 tháng x 29 ngày 50) :(chia) 11 ngày 25 = 31 tháng rưỡi.
Trong 31 tháng rưỡi, thiếu đúng 29 ngày rưỡi, tức là vừa đúng một lần trăng tròn. Cho nên muốn bù vào chỗ thiếu ấy để thời gian khỏi sai lẫn, nhà làm lịch cứ hai năm tám tháng lại có một tháng nhuần, rồi hai năm bảy tháng lại có một tháng nhuần.
Như thế tức là những năm nhuần kia dài gấp 13 lần trăng tròn.
Nhà làm lịch Tàu lại tính sẵn đủ cho một pho lịch 60 năm một vòng; đời sau cứ thế mà hàng năm in ra cho dân dùng.
Người Chaldéen cũng làm âm lịch 354 ngày, nhưng không có pho lịch sẵn, cứ bao giờ các nhà thiên văn cộng vào thấy vừa thiếu trọn một tuần trăng tròn, thì tâu lên nhà vua, nhà vua lại giáng chỉ cho dân thêm tháng nhuần thứ 13 ấy vào.
Thứ lịch mới này, tháng tính theo độ số của mặt trăng là Âm lịch, còn năm thì theo độ số của mặt trời để hợp thời tiết bốn mùa là Dương lịch, nên gọi là Âm Dương lịch, hay Nhật Nguyệt lịch (Calendrier luni-solaire).
Trong khi người phương Đông theo độ số mặt trăng, thì người phương Tây ra sức xem xét mặt trời.
Lịch La Mã (Calendrier Romain) làm từ đời vua Romolus (735-714 trước kỷ nguyên Tây lịch), chỉ có 300 ngày chia làm 10 tháng.
Vua sau là Numa Pompitius (714-671 trước kỷ nguyên Tây lịch) thêm vào hai tháng nữa. Tất cả thành 12 tháng, mỗi tháng 30 ngày, cộng là 360 ngày.
Tới năm 708 lịch La Mã, danh tướng La Mã là César (101-44 trước kỷ nguyên Tây lịch) sửa đổi lại lịch cũ cho hợp với độ số của mặt trời, tính cứ thấy một vòng một năm là 365 ngày và 1/4 ngày, Jules César liền đặt lịch mới là 365 ngày, còn 1/4 ngày ngày lẻ góp 4 năm lại đúng một ngày lẻ, cho vào cuối tháng Hai (Février) gọi là ngày nhuần.
Lịch ấy theo độ số của mặt trời, nên gọi là Dương lịch do Jules César làm ra, cũng gọi là lịch Julien. Đó là lịch ngày nay đang dùng.
Kể số ngày, thì lịch Julien cũng giống như Âm Dương lịch dài 365 ngày thêm 1/4 ngày. Nhưng năm tháng đi sai nhau nên bốn mùa và hiện tượng thiên văn chỉ khác nhau.
Nhật Nguyệt lịch tính theo độ số mặt trăng, nên đầu tháng là đầu tuần trăng non, giữa tháng là tuần trăng tròn, cuối tháng là tuần trăng khuyết.
Lich Julien chỉ theo độ số mặt trời, nên không hợp với các tuần trăng tròn khuyết, bởi vậy không thể xem vầng trăng mà đoán được ngày tháng trong lịch Julien, như theo Âm Dương lịch.
Âm Dương lịch phối hợp cả độ số của hai vầng nhật nguyệt đối với dịa cầu, nên Nguyệt thực de lune) bao giờ cũng vào tuần trăng tròn (giữa tháng), Nhật thực (Eclipse de soleil) bao giờ cũng vào tuần trăng non (đầu tháng). Lịch Julien không theo độ số mặt trăng nên những hiện tượng thiên văn (phénomènes atmosphériques) ấy có thể xảy ra bất cứ ở ngày nào trong lịch, mà không nhất định ở giữa tháng, đầu tháng hay cuối tháng.
Cứ theo lý ra thì một năm có bốn mùa, lịch phải đặt thế nào cho mùa Xuân đúng vào ba tháng đầu. Mùa Hạ dúng vào ba tháng sau. Mùa Thu đúng vào ba tháng dưới. Mùa Đông đúng vào ba tháng cuối cùng.
LịcH Julien đặt sai hẳn cả:
- Ngày 21 Mars là tiết Xuân phân (équinoxe de printemps).
- Ngày 21 Juin là tiết Hạ chí (soltice d'été).
- Ngày 23 Septembre là tiết Thu phân (équinoxe d'automne).
- Ngày 21 Décembre là tiết Đông chí (soltice d'hiver).
Thành ra đầu năm lịch, trời chưa sang Xuân, mà cuối năm lịch mới khởi đầu mùa rét...
Lịch Julien bất tiện như thế, nên đến cuối thế kỷ thứ 18, những nhà cầm đầu cuộc cách mạng nước Pháp đã sửa đổi phép đo lường, lại nghĩ đến cách sửa đổi cả phép làm lịch cho phú hợp thời tiết bốn mùa.
Quốc Gia Hội Nghị (La Convention Nationale) ban hành sắc lệnh cho dân quốc theo lịch mới từ ngày 24-11-1973.
Lịch ấy gọi là lịch Dân quốc (calendrier républicain) khởi đầu năm từ ngày Thu phân (22 Septembre) chia làm 12 tháng, mỗi tháng chẳng 30 ngày, còn thừa 5 ngày lẻ kia dùng để mở hội nghị kỷ niệm Dân quốc.
Mười hai tháng ấy không gọi là Giêng, Hai, Ba, Tư... gì cả, cứ theo thời tiết thế nào thì đặt tên tháng như vậy. Nhà thi sĩ Fabre d'Eglantine (1750-1794) dự bàn việc chính trị, có chân trong Quốc Gia Hội Nghị, dặt cho 12 tháng ấy những cái tên rất nên thơ:
1.- Mùa Thu:
- Vendémiaire: mois des vendanges, tháng hái nho.
- Brumaire: mois des brumes, tháng sương móc.
- Frimaire: mois des frimas, tháng sương mù.
2.- Mùa Đông:
- Nivose: mois des neiges, tháng tuyết trắng.
- Pluviose: mois des pluies, tháng mưa sa.
- Ventose: mois des vents, tháng gió thổi.
3.- Mùa Xuân:
- Germinal: mois des germinations, tháng nẩy mầm.
- Floréal: mois des fleurs. tháng nở hoa.
- Prairial: mois des prairies, tháng cỏ xanh non.
4.- Mùa Hạ:
- Messidor: mois des moission, tháng gặt hái.
- Thermidor: mois de la chaleur, des bains, tháng nồng nực.
- Fructidor: mois des fruits, tháng quả chín.
Mỗi tháng chia làm 3 lần 10 ngày, thi sĩ cũng bỏ cái lối chia làm tuần lễ: Lundi, Mardi... kia đi, mà đặt cho 10 ngày những cái tên cũng rất nên thơ:
- Primidi: mùng Một.
- Duodi: mùng Hai.
- Tridi: mùng Ba.
- Quartidi: mùng Bốn.
- Quintidi: mùng Năm.
- Sextidi: mùng Sáu.
- Septidi: mùng Bảy.
- Octidi: mùng Tám.
- Nonidi: mùng Chín.
- Décadi: mùng Mười.
Về Lịch số học đến đây thì quí vị đã hiểu đại khái. Còn về Dịch học của Á Đông thì sâu xa lắm và viết ra cho hết không tiện, nên chỉ tóm tắt mà thôi.
VÀI LỜI CÁO LỖI
Vì những vị tân học ngày nay cũng có một phần ít không rành về danh từ trong chữ Nho, nên buộc lòng tôi phải chua ngoại ngữ vào thêm chỗ giảng về Bát Quái Ngũ Hành và bài hiểu thêm về Lịch số học. Đó cũng chẳng ngoài ý của tôi muốn cho quí vị rộng hiểu thêm và cũng muốn ghi lại công khó của người xưa, dầu sao cũng có một đôi phần hữu ích vậy.
COI CHO BIẾT TUỔI, MẠNG, NĂM SANH CỦA NAM NỮ
(Nam Nữ coi chung)
Đây là bản liệt kê tính sẵn từ 01 tuổi đến 100 tuổi. Rồi cứ mỗi năm tính lên một tuổi là đúng. Bảng này lập thành vào năm Mậu Tuất tức là nhằm năm 2018 dương lịch.
- 2018 - 015 tuổi: Tuổi Mậu Tuất, cung Tốn, mạng Bình Địa Mộc, khắc Sa Trung Kim, con vua Thanh Đế, phú quí.
- 2017 - 016 tuổi: Tuổi Đinh Dậu, cung Chấn, mạng Sơn Hạ Hỏa, khắc Thích Lịch Hỏa, con vua Xích Đế, cô quạnh.
- 2016 - 017 tuổi: Tuổi Bính Thân, cung Khôn, mạng Sơn Hạ Hỏa, khắc Thích Lịch Hỏa, con vua Xích Đế, cô quạnh.
- 2015 - 018 tuổi: Tuổi Ất Mùi, cung Khảm, mạng Sa Trung Kim, khắc Thạch Lựu Mộc, con vua Bạch Đế, an mạng, phú quí.
- 2014 - 019 tuổi: Tuổi Giáp Ngọ, cung Ly, mạng Sa Trung Kim, khắc Thạch Lựu Mộc, con vua Bạch Đế, an mạng, phú quí.
- 2013 - 020 tuổi: Tuổi Quý Tỵ, cung Khôn, mạng Trường Lưu Thủy, khắc Thiên Thượng Hỏa, con vua Hắc Đế, trường mạng.
- 2012 - 021 tuổi: Tuổi Nhâm Thìn, cung Khảm, mạng Trường Lưu Thủy, khắc Thiên Thượng Hỏa, con vua Hắc Đế, trường mạng.
- 2011 - 022 tuổi: Tuổi Tân Mão, cung Ly, mạng Tòng Bá Mộc, khắc Lộ Bàn Thổ, con vua Thanh Đế, trường mạng.
- 2010 - 023 tuổi: Tuổi Canh Dần, cung Cấn, mạng Tòng Bá Mộc, khắc Lộ Bàn Thổ, con vua Thanh Đế, trường mạng.
- 2009 - 024 tuổi: Tuổi Kỷ Sửu, cung Đoài, mạng Thích Lịch Hỏa, khắc Thiên Thượng Thủy, con vua Xích Đế, phú quí.
- 2008 - 025 tuổi: Tuổi Mậu Tý, cung Càn, mạng Thích Lịch Hỏa, khắc Thiên Thượng Thủy, con vua Xích Đế, phú quí.
- 2007 - 026 tuổi: Tuổi Đinh Hợi, cung Cấn, mạng Ốc Thượng Thổ, khắc Thiên Thượng Thủy, con vua Huỳnh Đế, phú quí.
- 2006 - 027 tuổi: Tuổi Bính Tuất, cung Tốn, mạng Ốc Thượng Thổ, khắc Thiên Thượng Thủy, con vua Huỳnh Đế, phú quí.
- 2005 - 028 tuổi: Tuổi Ất Dậu, cung Chấn, mạng Tuyền Trung Thủy, khắc Thiên Thượng Hỏa, con vua Hắc Đế, từ tánh phú quí.
- 2004 - 029 tuổi: Tuổi Giáp Thân, cung Khôn, mạng Tuyền Trung Thủy, khắc Thiên Thượng Hỏa, con vua Hắc Đế, từ tánh phú quí.
- 2003 - 030 tuổi: Tuổi Quí Mùi, cung Càn, mạng Dương Liễu Mộc, khắc Lộ Bàn Thổ, con vua Thanh Đế, trường mạng.
- 2002 - 031 tuổi: Tuổi Nhâm Ngọ, cung Ly, mạng Dương Liễu Mộc, khắc Lộ Bàn Thổ, con vua Thanh Đế, trường mạng.
- 2001 - 032 tuổi: Tuổi Tân Tỵ, cung Tốn, mạng Bạch Lạp Kim, khắc Phúc Đăng Hỏa, con vua Bạch Đế, trường mạng.
- 2000 - 033 tuổi: Tuổi Canh Thìn, cung Chấn, mạng Bạch Lạp Kim, khắc Phúc Đăng Hỏa, con vua Bạch Đế, trường mạng.
- 1999 - 034 tuổi: Tuổi Kỷ Mão, cung Khôn, mạng Thành Đầu Thổ, khắc Thiên Thượng Thủy, con vua Huỳnh Đế, phú quí.
- 1998 - 035 tuổi: Tuổi Mậu Dần, cung Khảm, mạng Thành Đầu Thổ, khắc Thiên Thượng Thủy, con vua Huỳnh Đế, phú quí.
- 1997 - 036 tuổi: Tuổi Đinh Sửu, cung Ly, mạng Giáng Hạ Thủy, khắc Thiên Thượng Hỏa, con vua Hắc Đế, cô quạnh.
- 1996 - 037 tuổi: Tuổi Bính Tý, cung Cấn, mạng Giáng Hạ Thủy, khắc Thiên Thượng Hỏa, con vua Hắc Đế, cô quạnh.
- 1995 - 038 tuổi: Tuổi Ất Hợi, cung Đoài, mạng Sơn Đầu Hỏa, khắc Sa Trung Kim, con vua Xích Đế, cô quạnh
- 1994 - 039 tuổi: Tuổi Giáp Tuất, Càn, mạng Sơn Đầu Hỏa, khắc Sa Trung Kim, con vua Xích Đế, cô quạnh.
- 1993 - 040 tuổi: Tuổi Quý Dậu, cung Chấn, mạng Kiếm Phong Kim, khắc Phúc Đăng Hỏa,con vua Bạch Đế, phú quí.
- 1992 - 041 tuổi: Tuổi Nhâm Thân, cung Khôn, mạng Kiếm Phong Kim, khắc Phúc Đăng Hỏa,con vua Bạch Đế, phú quí.
- 1991 - 042 tuổi: Tuổi Tân Mùi, cung Khảm, mạng Lộ Bàn Thổ, khắc Tuyền Trung Thủy, con vua Huỳnh Đế, cô quạnh.
- 1990 - 043 tuổi: Tuổi Canh Ngọ, cung Ly, mạng Lộ Bàn Thổ, khắc Tuyền Trung Thủy, con vua Huỳnh Đế, cô quạnh.
- 1989 - 044 tuổi: Tuổi Kỷ Tỵ, cung Cấn, mạng Đại Lâm Mộc, khắc Đại Trạch Thổ, con vua Thanh Đế, trường mạng.
- 1988 - 045 tuổi: Tuổi Mậu Thìn, cung Đoài, mạng Đại Lâm Mộc, khắc Đại Trạch Thổ, con vua Thanh Đế, trường mạng.
- 1987 - 046 tuổi: Tuổi Đinh Mão, cung Càn, mạng Lư Trung Hỏa, khắc Kiếm Phong Kim, con vua Xích Đế, cô quạnh.
- 1986 - 047 tuổi: Tuổi Bình Dần, cung Khảm, mạng Lư Trung Hỏa, khắc Kiếm Phong Kim, con vua Xích Đế, cô quạnh.
- 1985- 048 tuổi: Tuổi Ất Sửu, cung Tốn, mạng Hải Trung Kim, khắc Bình Địa Mộc, con vua Bạch Đế, phú quí.
- 1984 - 049 tuổi: Tuổi Tý, cung Chấn, mạng Hải Trung Kim, khắc Bình Địa Mộc, con vua Bạch Đế, phú quí.
- 1983 - 050 tuổi: Tuổi Quý Hợi, cung Cấn, mạng Đại Hải Thủy, khắc Thiên Thượng Hỏa, con vua Hắc Đế. quan lộc tân khổ.
- 1982 - 051 tuổi: Tuổi Nhâm Tuất, cung Đoài, mạng Đại Hải Thủy, khắc Thiên Thượng Hỏa, con vua Hắc Đế, quan lộc tân khổ.
- 1981 - 052 tuổi: Tuổi Tân Dậu, cung Càn, mạng Thạch Lựu Mộc, khắc Bích Thượng Thổ, con vua Thanh Đế, cô quạnh.
- 1980 - 053 tuổi: Tuổi Canh Thân, cung Khôn, mạng Thạch Lựu Mộc, khắc Bích Thượng Thổ, con vua Thanh Đế, cô quạnh.
- 1979 - 054 tuổi: Tuổi Kỷ Mùi, cung Tốn, mạng Thiên Thượng Hỏa, khắc Sa Trung Kim, con vua Xích Đế, cô quạnh.
- 1978 - 055 tuổi: Tuổi Mậu Ngọ, cung Chấn, mạng Thiên Thượng Hỏa, khắc Sa Trung Kim, con vua Xích Đế, cô quạnh.
- 1977 - 056 tuổi: Tuổi Đinh Tỵ, cung Khôn, mạng Sa Trung Thổ, khắc Dương Liễu Mộc, con vua Huỳnh Đế, phú quí.
- 1976 - 057 tuổi: Tuổi Bình Thìn, cung Khảm, mạng Sa Trung Thổ, khắc Dương Liễu Mộc, con vua Huỳnh Đế, phú quí.
- 1975 - 058 tuổi: Tuổi Ất Mão, cung Ly, mạng Đại Khê Thủy, khắc Sơn Hạ Hỏa, con vua Hắc Đế, phú quí.
- 1974 - 059 tuổi: Tuổi Giáp Dần, cung Cấn, mạng Đại Khê Thủy, khắc Sơn Hạ Hỏa, con vua Hắc Đế, phú quí.
- 1973 - 060 tuổi: Tuổi Quý Sửu, cung Tốn, mạng Tang Đố Mộc, khắc Ốc Thượng Thổ, con vua Thanh Đế, quan lộc tân khổ.
- 1972 - 061 tuổi: Tuổi Nhâm Tý, cung Chấn, mạng Tang Đố Mộc, khắc Ốc Thượng Thổ, con vua Thanh Đế, quan lộc tân khổ.
- 1971 - 62 tuổi: Tuổi Tân Hợi, cung Khôn, mạng Kiếm Phong Kim, khắc Đại Lâm Mộc, con vua Bạch Đế, phú quí.
- 1970 - 063 tuổi: Tuổi Canh Tuất, cung Khảm, mạng Kiếm Phong Kim, khắc Đại Lâm Mộc, con vua Bạch Đế, phú quí.
- 1969 - 064 tuổi: Tuổi Kỷ Dậu, cung Ly, mạng Đại Trạch Thổ, khắc Thiên Thượng Thủy, con vua Huỳnh Đế, quan lộc.
- 1968 - 065 tuổi: Tuổi Mậu Thân, cung Cấn, mạng Đại Trạch Thổ, khắc Thiên Thượng Thủy, con vua Huỳnh Đế, quan lộc.
- 1967 - 066 tuổi: Tuổi Đinh Mùi, cung Đoài, mạng Thiên Thượng Thủy, khắc Thiên Thượng Hỏa, con vua Hắc Đế, tân khổ.
- 1966 - 067 tuổi: Tuổi Đinh Ngọ, cung Càn, mạng Thiên Thượng Thủy, khắc Thiên Thượng Hỏa, con vua Hắc Đế, tân khổ
- 1965 - 068 tuổi: Tuổi Ất Tỵ, cung Đoài, mạng Phúc Đăng Hỏa, khắc Xoa Xuyến Kim, con vua Xích Đế, tân khổ.
- 1964 - 069 tuổi: Tuổi Giáp Thìn, cung Khảm, mạng Phúc Đăng Hỏa, khắc Xoa Xuyến Kim, con vua Xích Đế, tân khổ.
- 1963 - 070 tuổi: Tuổi Quý Mão, cung Ly, mạng Kim Bạch Kim, khắc Lư Trung Hỏa, con vua Bạch Đế, phú quí.
- 1962 - 071 tuổi: Tuổi Nhâm Dần, cung Cấn, mạng Kim Bạch Kim, khắc Lư Trung Hỏa, con vua Bạch Đế, phú quí.
- 1961 - 072 tuổi: Tuổi Tân Sửu, cung Đoài, mạng Bích Thượng Thổ, khắc Thiên Thượng Thủy, con vua Huỳnh Đế, quan lộc cô quạnh.
- 1960 - 073 tuổi: Tuổi Canh Tý, cung Càn, mạng Bích Thượng Thổ, khắc Thiên Thượng Thủy, con vua Huỳnh Đế, quan lộc cô quạnh.
- 1959 - 074 tuổi: Tuổi Kỷ Hợi, cung Cấn, mạng Bình Địa Mộc, khắc Sa Trung Kim, con vua Thanh Đế, phú quí.
- 1958 - 015 tuổi: Tuổi Mậu Tuất, cung Tốn, mạng Bình Địa Mộc, khắc Sa Trung Kim, con vua Thanh Đế, phú quí.
- 1957 - 016 tuổi: Tuổi Đinh Dậu, cung Chấn, mạng Sơn Hạ Hỏa, khắc Thích Lịch Hỏa, con vua Xích Đế, cô quạnh.
- 1956 - 017 tuổi: Tuổi Bính Thân, cung Khôn, mạng Sơn Hạ Hỏa, khắc Thích Lịch Hỏa, con vua Xích Đế, cô quạnh.
- 1955 - 018 tuổi: Tuổi Ất Mùi, cung Khảm, mạng Sa Trung Kim, khắc Thạch Lựu Mộc, con vua Bạch Đế, an mạng, phú quí.
- 1954 - 019 tuổi: Tuổi Giáp Ngọ, cung Ly, mạng Sa Trung Kim, khắc Thạch Lựu Mộc, con vua Bạch Đế, an mạng, phú quí.
- 1953 - 020 tuổi: Tuổi Quý Tỵ, cung Khôn, mạng Trường Lưu Thủy, khắc Thiên Thượng Hỏa, con vua Hắc Đế, trường mạng.
- 1952 - 021 tuổi: Tuổi Nhâm Thìn, cung Khảm, mạng Trường Lưu Thủy, khắc Thiên Thượng Hỏa, con vua Hắc Đế, trường mạng.
- 1951 - 022 tuổi: Tuổi Tân Mão, cung Ly, mạng Tòng Bá Mộc, khắc Lộ Bàn Thổ, con vua Thanh Đế, trường mạng.
- 1950 - 023 tuổi: Tuổi Canh Dần, cung Cấn, mạng Tòng Bá Mộc, khắc Lộ Bàn Thổ, con vua Thanh Đế, trường mạng.
- 1949 - 024 tuổi: Tuổi Kỷ Sửu, cung Đoài, mạng Thích Lịch Hỏa, khắc Thiên Thượng Thủy, con vua Xích Đế, phú quí.
- 1948 - 025 tuổi: Tuổi Mậu Tý, cung Càn, mạng Thích Lịch Hỏa, khắc Thiên Thượng Thủy, con vua Xích Đế, phú quí.
- 1947 - 026 tuổi: Tuổi Đinh Hợi, cung Cấn, mạng Ốc Thượng Thổ, khắc Thiên Thượng Thủy, con vua Huỳnh Đế, phú quí.
- 1946 - 027 tuổi: Tuổi Bính Tuất, cung Tốn, mạng Ốc Thượng Thổ, khắc Thiên Thượng Thủy, con vua Huỳnh Đế, phú quí.
- 1945 - 028 tuổi: Tuổi Ất Dậu, cung Chấn, mạng Tuyền Trung Thủy, khắc Thiên Thượng Hỏa, con vua Hắc Đế, từ tánh phú quí.
- 1944 - 029 tuổi: Tuổi Giáp Thân, cung Khôn, mạng Tuyền Trung Thủy, khắc Thiên Thượng Hỏa, con vua Hắc Đế, từ tánh phú quí.
- 1943 - 030 tuổi: Tuổi Quí Mùi, cung Càn, mạng Dương Liễu Mộc, khắc Lộ Bàn Thổ, con vua Thanh Đế, trường mạng.
- 1942 - 031 tuổi: Tuổi Nhâm Ngọ, cung Ly, mạng Dương Liễu Mộc, khắc Lộ Bàn Thổ, con vua Thanh Đế, trường mạng.
- 1941 - 032 tuổi: Tuổi Tân Tỵ, cung Tốn, mạng Bạch Lạp Kim, khắc Phúc Đăng Hỏa, con vua Bạch Đế, trường mạng.
- 1940 - 033 tuổi: Tuổi Canh Thìn, cung Chấn, mạng Bạch Lạp Kim, khắc Phúc Đăng Hỏa, con vua Bạch Đế, trường mạng.
- 1939 - 034 tuổi: Tuổi Kỷ Mão, cung Khôn, mạng Thành Đầu Thổ, khắc Thiên Thượng Thủy, con vua Huỳnh Đế, phú quí.
- 1938 - 035 tuổi: Tuổi Mậu Dần, cung Khảm, mạng Thành Đầu Thổ, khắc Thiên Thượng Thủy, con vua Huỳnh Đế, phú quí.
- 1937 - 036 tuổi: Tuổi Đinh Sửu, cung Ly, mạng Giáng Hạ Thủy, khắc Thiên Thượng Hỏa, con vua Hắc Đế, cô quạnh.
- 1936 - 037 tuổi: Tuổi Bính Tý, cung Cấn, mạng Giáng Hạ Thủy, khắc Thiên Thượng Hỏa, con vua Hắc Đế, cô quạnh.
- 1935 - 038 tuổi: Tuổi Ất Hợi, cung Đoài, mạng Sơn Đầu Hỏa, khắc Sa Trung Kim, con vua Xích Đế, cô quạnh
- 1934 - 039 tuổi: Tuổi Giáp Tuất, Càn, mạng Sơn Đầu Hỏa, khắc Sa Trung Kim, con vua Xích Đế, cô quạnh.
- 1933 - 040 tuổi: Tuổi Quý Dậu, cung Chấn, mạng Kiếm Phong Kim, khắc Phúc Đăng Hỏa,con vua Bạch Đế, phú quí.
- 1932 - 041 tuổi: Tuổi Nhâm Thân, cung Khôn, mạng Kiếm Phong Kim, khắc Phúc Đăng Hỏa,con vua Bạch Đế, phú quí.
- 1931 - 042 tuổi: Tuổi Tân Mùi, cung Khảm, mạng Lộ Bàn Thổ, khắc Tuyền Trung Thủy, con vua Huỳnh Đế, cô quạnh.
- 1930 - 043 tuổi: Tuổi Canh Ngọ, cung Ly, mạng Lộ Bàn Thổ, khắc Tuyền Trung Thủy, con vua Huỳnh Đế, cô quạnh.
- 1929 - 044 tuổi: Tuổi Kỷ Tỵ, cung Cấn, mạng Đại Lâm Mộc, khắc Đại Trạch Thổ, con vua Thanh Đế, trường mạng.
- 1928 - 045 tuổi: Tuổi Mậu Thìn, cung Đoài, mạng Đại Lâm Mộc, khắc Đại Trạch Thổ, con vua Thanh Đế, trường mạng.
- 1927 - 046 tuổi: Tuổi Đinh Mão, cung Càn, mạng Lư Trung Hỏa, khắc Kiếm Phong Kim, con vua Xích Đế, cô quạnh.
- 1926 - 047 tuổi: Tuổi Bình Dần, cung Khảm, mạng Lư Trung Hỏa, khắc Kiếm Phong Kim, con vua Xích Đế, cô quạnh.
- 1925 - 048 tuổi: Tuổi Ất Sửu, cung Tốn, mạng Hải Trung Kim, khắc Bình Địa Mộc, con vua Bạch Đế, phú quí.
- 1924 - 049 tuổi: Tuổi Giáp Tý, cung Chấn, mạng Hải Trung Kim, khắc Bình Địa Mộc, con vua Bạch Đế, phú quí.
- 1923 - 050 tuổi: Tuổi Quý Hợi, cung Cấn, mạng Đại Hải Thủy, khắc Thiên Thượng Hỏa, con vua Hắc Đế. quan lộc tân khổ.
- 1922 - 051 tuổi: Tuổi Nhâm Tuất, cung Đoài, mạng Đại Hải Thủy, khắc Thiên Thượng Hỏa, con vua Hắc Đế, quan lộc tân khổ.
- 1921 - 052 tuổi: Tuổi Tân Dậu, cung Càn, mạng Thạch Lựu Mộc, khắc Bích Thượng Thổ, con vua Thanh Đế, cô quạnh.
- 1920 - 053 tuổi: Tuổi Canh Thân, cung Khôn, mạng Thạch Lựu Mộc, khắc Bích Thượng Thổ, con vua Thanh Đế, cô quạnh.
- 1919 - 054 tuổi: Tuổi Kỷ Mùi, cung Tốn, mạng Thiên Thượng Hỏa, khắc Sa Trung Kim, con vua Xích Đế, cô quạnh.
- 1918 - 055 tuổi: Tuổi Mậu Ngọ, cung Chấn, mạng Thiên Thượng Hỏa, khắc Sa Trung Kim, con vua Xích Đế, cô quạnh.
- 1917 - 056 tuổi: Tuổi Đinh Tỵ, cung Khôn, mạng Sa Trung Thổ, khắc Dương Liễu Mộc, con vua Huỳnh Đế, phú quí.
- 1916 - 057 tuổi: Tuổi Bình Thìn, cung Khảm, mạng Sa Trung Thổ, khắc Dương Liễu Mộc, con vua Huỳnh Đế, phú quí.
- 1915 - 058 tuổi: Tuổi Ất Mão, cung Ly, mạng Đại Khê Thủy, khắc Sơn Hạ Hỏa, con vua Hắc Đế, phú quí.
- 1914 - 059 tuổi: Tuổi Giáp Dần, cung Cấn, mạng Đại Khê Thủy, khắc Sơn Hạ Hỏa, con vua Hắc Đế, phú quí.
- 1913 - 060 tuổi: Tuổi Quý Sửu, cung Tốn, mạng Tang Đố Mộc, khắc Ốc Thượng Thổ, con vua Thanh Đế, quan lộc tân khổ.
- 1912 - 061 tuổi: Tuổi Nhâm Tý, cung Chấn, mạng Tang Đố Mộc, khắc Ốc Thượng Thổ, con vua Thanh Đế, quan lộc tân khổ.
- 1911 - 62 tuổi: Tuổi Tân Hợi, cung Khôn, mạng Kiếm Phong Kim, khắc Đại Lâm Mộc, con vua Bạch Đế, phú quí.
- 1910 - 063 tuổi: Tuổi Canh Tuất, cung Khảm, mạng Kiếm Phong Kim, khắc Đại Lâm Mộc, con vua Bạch Đế, phú quí.
- 1909 - 064 tuổi: Tuổi Kỷ Dậu, cung Ly, mạng Đại Trạch Thổ, khắc Thiên Thượng Thủy, con vua Huỳnh Đế, quan lộc.
- 1908 - 065 tuổi: Tuổi Mậu Thân, cung Cấn, mạng Đại Trạch Thổ, khắc Thiên Thượng Thủy, con vua Huỳnh Đế, quan lộc.
- 1907 - 066 tuổi: Tuổi Đinh Mùi, cung Đoài, mạng Thiên Thượng Thủy, khắc Thiên Thượng Hỏa, con vua Hắc Đế, tân khổ.
- 1906 - 067 tuổi: Tuổi Đinh Ngọ, cung Càn, mạng Thiên Thượng Thủy, khắc Thiên Thượng Hỏa, con vua Hắc Đế, tân khổ
- 1905 - 068 tuổi: Tuổi Ất Tỵ, cung Đoài, mạng Phúc Đăng Hỏa, khắc Xoa Xuyến Kim, con vua Xích Đế, tân khổ.
- 1904 - 069 tuổi: Tuổi Giáp Thìn, cung Khảm, mạng Phúc Đăng Hỏa, khắc Xoa Xuyến Kim, con vua Xích Đế, tân khổ.
- 1903 - 070 tuổi: Tuổi Quý Mão, cung Ly, mạng Kim Bạch Kim, khắc Lư Trung Hỏa, con vua Bạch Đế, phú quí.
- 1902 - 071 tuổi: Tuổi Nhâm Dần, cung Cấn, mạng Kim Bạch Kim, khắc Lư Trung Hỏa, con vua Bạch Đế, phú quí.
- 1901 - 072 tuổi: Tuổi Tân Sửu, cung Đoài, mạng Bích Thượng Thổ, khắc Thiên Thượng Thủy, con vua Huỳnh Đế, quan lộc cô quạnh.
- 1900 - 073 tuổi: Tuổi Canh Tý, cung Càn, mạng Bích Thượng Thổ, khắc Thiên Thượng Thủy, con vua Huỳnh Đế, quan lộc cô quạnh.
- 1899 - 074 tuổi: Tuổi Kỷ Hợi, cung Cấn, mạng Bình Địa Mộc, khắc Sa Trung Kim, con vua Thanh Đế, phú quí.
- 1898 - 075 tuổi: Tuổi Mậu Tuất, cung Tốn, mạng Bình Địa Mộc, khắc Sa Trung Kim, con vua Thanh Đế, phú quí.
- 1897 - 076 tuổi: Tuổi Đinh Dậu, cung Chấn, mạng Sơn Hạ Hỏa, khắc Thích Lịch Hỏa, con vua Xích Đế, cô quạnh.
- 1896 - 077 tuổi: Tuổi Bính Thân, cung Khôn, mạng Sơn Hạ Hỏa, khắc Thích Lịch Hỏa, con vua Xích Đế, cô quạnh.
- 1895 - 078 tuổi: Tuổi Ất Mùi, cung Khảm, mạng Sa Trung Kim, khắc Thạch Lựu Mộc, con vua Bạch Đế, an mạng phú quí.
- 1894 - 079 tuổi: Tuổi Giáp Ngọ, cung Ly, mạng Sa Trung Kim, khắc Thạch Lựu Mộc, con vua Bạch Đế, an mạng phú quí.
- 1893 - 080 tuổi: Tuổi Quý Tỵ, cung Khôn, mạng Trường Lưu Thủy, khắc Thiên Thượng Hỏa, con vua Hắc Đế, trường mạng.
- 1892 - 081 tuổi: Tuổi Nhâm Thìn, cung Khảm, mạng Trường Lưu Thủy, khắc Thiên Thượng Hỏa, con vua Hắc Đế, trường mạng.
- 1891 - 082 tuổi: Tuổi Tân Mão, cung Ly, mạng Tòng Bá Mộc, khắc Lộ Bàn Thổ, con vua Thanh Đế, trường mạng.
- 1890 - 083 tuổi: Tuổi Canh Dần, cung Cấn, mạng Tòng Bá Mộc, khắc Lộ Bàn Thổ, con vua Thanh Đế, trường mạng.
- 1889 - 084 tuổi: Tuổi Kỷ Sửu, cung Đoài, mạng Thích Lịch Hỏa, khắc Thiên Thượng Thủy, con vua Xích Đế, phú quí.
- 1888 - 085 tuổi: Tuổi Mậu Tý, cung Càn, mạng Thích Lịch Hỏa, khắc Thiên Thượng Thủy, con vua Xích Đế, phú quí.
- 1887 - 086 tuổi: Tuổi Đinh Hợi, cung Cấn, mạng Ốc Thượng Thổ, khắc Thiên Thượng Hỏa, con vua Huỳnh Đế, phú quí.
- 1886 - 087 tuổi: Tuổi Bính Tuất, cung Tốn, mạng Ốc Thượng Thổ, khắc Thiên Thượng Hỏa, con vua Huỳnh Đế, phú quí.
- 1885 - 088 tuổi: Tuổi Ất Dậu, cung Chấn, mạng Tuyền Trung Thủy, khắc Thiên Thượng Hỏa, con vua Hắc Đế, từ tánh phú quí.
- 1884 - 089 tuổi: Tuổi Giáp Thân, cung Khôn, mạng Tuyền Trung Thủy, khắc Thiên Thượng Hỏa, con vua Hắc Đế, từ tánh phú quí.
- 1883 - 090 tuổi: Tuổi Quý Mùi, cung Càn, mạng Dương Liễu Mộc, khắc Lộ Bàn Thổ, con vua Thanh Đế, trường mạng.
- 1882 - 091 tuổi: Tuổi Nhâm Ngọ, cung Ly, mạng Dương Liễu Mộc, khắc Lộ Bàn Thổ, con vua Thanh Đế, trường mạng.
- 1881 - 092 tuổi: Tuổi Tân Tỵ, cung Tốn, mạng Bạch Lạp Kim, khắc Phúc Đăng Hỏa, con vua Bạch Đế, trường mạng.
- 1880 - 093 tuổi: Tuổi Canh Thìn, cung Chấn, mạng Bạch Lạp Kim, khắc Phúc Đăng Hỏa, con vua Bạch Đế, trường mạng.
- 1879 - 094 tuổi: Tuổi Kỷ Mão, cung Khôn, mạng Thành Đầu Thổ, khắc Thiên Thượng Thủy, con vua Huỳnh Đế, phú quí.
- 1878 - 095 tuổi: Tuổi Mậu Dần, cung Khảm, mạng Thành Đầu Thổ, khắc Thiên Thượng Thủy, con vua Huỳnh Đế, phú quí.
- 1877 - 096 tuổi: Tuổi Đinh Sửu, cung Ly, mạng Giáng Hạ Thủy, khắc Thiên Thượng Hỏa, con vua Hắc Đế, cô quạnh.
- 1876 - 097 tuổi: Tuổi Bính Tý, cung Cấn, mạng Giáng Hạ Thủy, khắc Thiên Thượng Hỏa, con vua Hắc Đế, cô quạnh.
- 1875 - 098 tuổi: Tuổi Ất Hợi, cung Đoài, mạng Sơn Đầu Hỏa, khắc Sa Trung Kim, con vua Xích Đế, cô quạnh.
- 1874 - 099 tuổi: Tuổi Giáp Tuất, cung Càn, mạng Sơn Đầu Hỏa, khắc Sa Trung Kim, con vua Xích Đế, cô quạnh.
- 1873 - 086 tuổi: Tuổi Quý Dậu, cung Chấn, mạng Kiếm Phong Kim, khắc Phúc Đăng Hỏa, con vua Bạch Đế, phú quí.
- 1872 - 087 tuổi: Tuổi Nhâm Thân, cung Khôn, mạng Kiếm Phong Kim, khắc Phúc Đăng Hỏa, con vua Bạch Đế, phú quí.
- 1871 - 088 tuổi: Tuổi Tân Mùi, cung Khảm, mạng Lộ Bàng Thổ, khắc Tuyền Trung Thủy, con vua Huynh Đế, bần cùng.
- 1870 - 089 tuổi: Tuổi Canh Ngọ, cung Ly, mạng Lộ Bàng Thổ, khắc Tuyền Trung Thủy, con vua Huynh Đế bần cùng.
- 1869 - 090 tuổi: Tuổi Kỷ Tỵ, cung Cấn, mạng Đại Lâm Mộc, khắc Đại Trạch Thổ, con vua Thanh Đế trường mạng.
- 1868 - 091 tuổi: Tuổi Mậu Thìn, cung Đoài, mạng Đại Lâm Mộc, khắc Đại Trạch Thổ, con vua Thanh Đế trường mạng.
- 1867 - 092 tuổi: Tuổi Đinh Mão, cung Càn, mạng Lư Trung Hỏa, khắc Kiếm Phong Kim, con vua Xích Đế, cô bần.
- 1866 - 093 tuổi: Tuổi Bính Dần, cung Khảm, mạng Lư Trung Hỏa, khắc Kiếm Phong Kim, con vua Xích Đế, cô bần.
- 1865 - 094 tuổi: Tuổi Ất Sửu, cung Tốn, mạng Hải Trung Kim, khắc Bình Địa Mộc, con vua Bạch Đế, phú quí.
- 1864 - 095 tuổi: Tuổi Giáp Tý, cung Chấn, mạng Hải Trung Kim, khắc Bình Địa Mộc, con vua Bạch Đế, phú quí.
- 1863 - 096 tuổi: Tuổi Quý Hợi, cung Cấn, mạng Đại Hải Thủy, khắc Thiên Thượng Hỏa, con vua Hắc Đế, quan lộc tân khổ.
- 1862 - 097 tuổi: Tuổi Nhâm Tuất, cung Đoài, mạng Đại Hải Thủy, khắc Thiên Thượng Hỏa, con vua Hắc Đế, quan lộc tân khổ.
- 1861 - 098 tuổi: Tuổi Tân Dậu, cung Càn, mạng Thạch Lựu Mộc, khắc Bích Thượng Thổ, con vua Thanh Đế cô quạnh.
- 1860 - 099 tuổi: Tuổi Canh Thìn, cung Khôn, mạng Thạch Lựu Mộc, khắc Bích Thượng Thổ, con vua Thanh Đế cô quạnh.
- 1859 - 100 tuổi: Tuổi Kỷ Mùi, cung Tốn, mạng Thiên Thượng Hỏa, khắc Sa Trung Kim, con vua Xích Đế cô quạnh.
HÔN NHÂN THUỘC NGŨ ĐẾ
Lấy nhau tốt hay xấu
Quí vị xem lại bảng tính tuổi ở trên để được biết mấy tuổi và con của vua Đế nào?
XÍCH ĐẾ:
Con nhà Xích Đế cưới con nhà Xích Đế: thì chồng vợ trước nghèo khổ, sau phú quí và đông con (Tốt).
Con nhà Xích Đế cưới con nhà Huỳnh Đế: thì chồng vợ trước nghèo sau đặng giàu sang (Tốt).
Con nhà Xích Đế cưới con nhà Bạch Đế: thì chồng vợ hay bất hòa, luôn luôn hay tranh cãi (Xấu).
Con nhà Xích Đế cưới con nhà Thanh Đế: thì chồng vợ trước cũng như sau, đều đặng hoàn toàn hạnh phúc và sang giàu (Thật tốt).
Con nhà Xích Đế cưới con nhà Hắc Đế: thì chồng vợ thường bất hòa, khó được lâu bền, rồi phải phân ly (Thật xấu).
HUỲNH ĐẾ:
Con nhà Huỳnh Đế cưới con nhà Huỳnh Đế: thì chồng vợ làm ăn đủ dùng; tuy chẳng dư dã, nhưng vợ chồng đặng vĩnh viễn (Tốt).
Con nhà Huỳnh Đế cưới con nhà Xích Đế: thì chồng vợ trước làm ăn trung bình, từ ba mươi tuổi trở lên sẽ đặng phú quí vinh hoa (Thật tốt).
Con nhà Huỳnh Đế cưới con nhà Bạch Đế: thì chồng vợ đặng giai lão, nếu sanh con trai đàu lòng sẽ đặng giàu to (Tốt).
Con nhà Huỳnh Đế cưới con nhà Thanh Đế: thì chồng vợ ăn ở rất xung khắc, rồi sau cũn gphải phân ly hai ngã (Thật xấu).
Con nhà Huỳnh Đế cưới con nhà Hắc Đế: thì chồng vợ cũng đều khắc về mạng, hay tranh cãi (Thật xấu).
BẠCH ĐẾ:
Con nhà Bạch Đế cưới con nhà Huỳnh Đế: thì chồng vợ trước cũng như sau, đều đặng giai lão và giàu sang phú quí (Thật tốt).
Con nhà Bạch Đế cưới con nhà Xích Đế: thì chồng vợ rất xung khắc, gặp nhiều tai họa (Thật xấu).
Con nhà Bạch Đế cưới con nhà Bạch Đế: thì chồng vợ cũng đều xung khắc và gặp tai họa luôn, rồi sau cũng phân ly (Thật xấu).
Con nhà Bạch Đế cưới con nhà Thanh Đế: thì chồng vợ trước và sau cũng chẳng khá, nhưng đặng bền lâu (Xấu).
Con nhà Bạch Đế cưới con nhà Hắc Đế: nếu sanh dặng con trai đầu lòng sẽ đặng giàu sang, làm ăn thịnh vượng (Tốt).
THANH ĐẾ:
Con nhà Thanh Đế cưới con nhà Huỳnh Đế: thì chồng vợ rất khá giả, làm ăn thạnh phát, lắm của nhiều con (Thật tốt).
Con nhà Thanh Đế cưới con nhà Xích Đế: thì chồng vợ đặng thuận thảo và hạnh phúc (Thật tốt).
Con nhà Thanh Đế cưới con nhà Bạch Đế: thì chồng vợ trước phải nghèo, từ ba mươi tuổi trở lên sẽ đặng khá (Tốt).
Con nhà Thanh Đế cưới con nhà Thanh Đế: thì chồng vợ ăn ở không đặng bền lâu, sau có thể chia ly mỗi người mỗi ngã (Thật xấu).
Con nhà Thanh Đế cưới con nhà Hắc Đế: thì chồng vợ được hoàn toàn hạnh phúc giàu sang (Thật tốt).
HẮC ĐẾ:
Con nhà Hắc Đế cưới con nhà Huỳnh Đế: thì chồng vợ trước phải chịu nghèo khổ, đến ba mươi tuổi trở lên sẽ dặng khá (Tốt).
Con nhà Hắc Đế cưới con nhà Xích Đế: thì chồng vợ xung khắc và kỵ nuôi con vì khó sống được đến lớn (Thật xấu).
Con nhà Hắc Đế cưới con nhà Thanh Đế: thì chồng vợ dặng thuận hòa và sẽ giàu sang phú quí (Thật tốt).
Con nhà Hắc Đế cưới con nhà Bạch Đế: nếu sanh con trai đầu lòng thì làm ăn phát đạt (Tốt).
Con nhà Hắc Đế cưới con nhà Hắc Đế: thì chồng vợ đặng hạnh phúc, bền duyên và phú quí (Thật tốt).
Quí vị nên chú ý: Mỗi câu trên đây nói người chồng thuộc con nhà Đế nào, rồi cưới vợ thuộc con nhà Đế nào mới được bền duyên hay phân ly, tốt hay xấu.
Thí dụ: Con nhà Hắc Đế (là người chồng cưới con nhà Hắc Đế (là người vợ) thì vợ chồng đặng hạnh phúc v.v...
Quí vị coi như thế mới đúng nghĩa, nếu nghĩ ngược lại là sai.
XEM 12 THÁNG SINH CỦA NAM NỮ
ẨN VÀ BIẾN CỦA CÁC GIỐNG CHIM
- Tuổi Tý:
Sinh tháng giêng: Phượng hoàng.
Sinh tháng hai: Sư tử.
Sinh tháng ba: Kim kê.
Sinh tháng tư: Bạch kê.
Sinh tháng năm: Bạch yến.
Sinh tháng sáu: Họa mi.
Sinh tháng bảy: Sơn lộc.
Sinh tháng tám: Khổng tước.
Sinh tháng chín: Cưu bột.
Sinh tháng mười: Châu tước.
Sinh tháng mười một: Giốc ưng.
Sinh tháng chạp: Bạch Hạc.
- Tuổi Sửu:
Sinh tháng giêng: Bạch Hạc.
Sinh tháng hai: Phượng hoàng.
Sinh tháng ba: Sư tử.
Sinh tháng tư: Kim kê.
Sinh tháng năm: Bạch kê.
Sinh tháng sáu: Bạch yến.
Sinh tháng bảy: Họa mi.
Sinh tháng tám: Sơn lộc.
Sinh tháng chín: Khổng tước.
Sinh tháng mười: Cưu bột.
Sinh tháng mười một: Châu tước.
Sinh tháng chạp: Giốc ưng.
- Tuổi Dần:
Sinh tháng giêng: Giốc ưng.
Sinh tháng hai: Bạch Hạc.
Sinh tháng ba: Phượng hoàng.
Sinh tháng tư: Sư tử.
Sinh tháng năm: Kim kê.
Sinh tháng sáu: Bạch kê.
Sinh tháng bảy: Bạch yến.
Sinh tháng tám: Họa mi.
Sinh tháng chín: Sơn lộc.
Sinh tháng mười: Khổng tước.
Sinh tháng mười một: Cưu bột.
Sinh tháng chạp: Châu tước.
- Tuổi Mão:
Sinh tháng giêng: Châu tước.
Sinh tháng hai: Giốc ưng.
Sinh tháng ba: Bạch Hạc.
Sinh tháng tư: Phượng hoàng.
Sinh tháng năm: Sư tử.
Sinh tháng sáu: Kim kê.
Sinh tháng bảy: Bạch kê.
Sinh tháng tám: Bạch yến.
Sinh tháng chín: Họa mi.
Sinh tháng mười: Sơn lộc.
Sinh tháng mười một: Khổng tước.
Sinh tháng chạp: Cưu bột.
- Tuổi Thìn:
Sinh tháng giêng: Cưu bột.
Sinh tháng hai: Châu tước.
Sinh tháng ba: Giốc ưng.
Sinh tháng tư: Bạch Hạc.
Sinh tháng năm: Phượng hoàng.
Sinh tháng sáu: Sư tử.
Sinh tháng bảy: Kim kê.
Sinh tháng tám: Bạch kê.
Sinh tháng chín: Bạch yến.
Sinh tháng mười: Họa mi.
Sinh tháng mười một: Sơn lộc.
Sinh tháng chạp: Khổng tước.
- Tuổi Tỵ:
Sinh tháng giêng: Khổng tước.
Sinh tháng hai: Cưu bột.
Sinh tháng ba: Châu tước.
Sinh tháng tư: Giốc ưng.
Sinh tháng năm: Bạch Hạc.
Sinh tháng sáu: Phượng hoàng.
Sinh tháng bảy: Sư tử.
Sinh tháng tám: Kim kê.
Sinh tháng chín: Bạch kê.
Sinh tháng mười: Bạch yến.
Sinh tháng mười một: Họa mi.
Sinh tháng chạp: Sơn lộc.
- Tuổi Ngọ:
Sinh tháng giêng: Sơn lộc.
Sinh tháng hai: Khổng tước.
Sinh tháng ba: Cưu bột.
Sinh tháng tư: Châu tước.
Sinh tháng năm: Giốc ưng.
Sinh tháng sáu: Bạch Hạc.
Sinh tháng bảy: Phượng hoàng.
Sinh tháng tám: Sư tử.
Sinh tháng chín: Kim kê.
Sinh tháng mười: Bạch kê.
Sinh tháng mười một: Bạch yến.
Sinh tháng chạp: Họa mi.
- Tuổi Mùi:
Sinh tháng giêng: Họa mi.
Sinh tháng hai: Sơn lộc.
Sinh tháng ba: Khổng tước.
Sinh tháng tư: Cưu bột.
Sinh tháng năm: Châu tước.
Sinh tháng sáu: Giốc ưng.
Sinh tháng bảy: Bạch Hạc.
Sinh tháng tám: Phượng hoàng.
Sinh tháng chín: Sư tử.
Sinh tháng mười: Kim kê.
Sinh tháng mười một: Bạch kê.
Sinh tháng chạp: Bạch yến.
- Tuổi Thân:
Sinh tháng giêng: Bạch yến.
Sinh tháng hai: Họa mi.
Sinh tháng ba: Sơn lộc.
Sinh tháng tư: Khổng tước.
Sinh tháng năm: Cưu bột.
Sinh tháng sáu: Châu tước.
Sinh tháng bảy: Giốc ưng.
Sinh tháng tám: Bạch Hạc.
Sinh tháng chín: Phượng hoàng.
Sinh tháng mười: Sư tử.
Sinh tháng mười một: Kim kê.
Sinh tháng chạp: Bạch kê.
- Tuổi Dậu:
Sinh tháng giêng: Bạch kê.
Sinh tháng hai: Bạch yến.
Sinh tháng ba: Họa mi.
Sinh tháng tư: Sơn lộc.
Sinh tháng năm: Khổng tước.
Sinh tháng sáu: Cưu bột.
Sinh tháng bảy: Châu tước.
Sinh tháng tám: Giốc ưng.
Sinh tháng chín: Bạch Hạc.
Sinh tháng mười: Phượng hoàng.
Sinh tháng mười một: Sư tử.
Sinh tháng chạp: Kim kê.
- Tuổi Tuất:
Sinh tháng giêng: Kim kê.
Sinh tháng hai: Bạch kê.
Sinh tháng ba: Bạch yến.
Sinh tháng tư: Họa mi.
Sinh tháng năm: Sơn lộc.
Sinh tháng sáu: Khổng tước.
Sinh tháng bảy: Cưu bột.
Sinh tháng tám: Châu tước.
Sinh tháng chín: Giốc ưng.
Sinh tháng mười: Bạch Hạc.
Sinh tháng mười một: Phượng hoàng.
Sinh tháng chạp: Sư tử.
- Tuổi Hợi:
Sinh tháng giêng: Sư tử.
Sinh tháng hai: Kim kê.
Sinh tháng ba: Bạch kê.
Sinh tháng tư: Bạch yến.
Sinh tháng năm: Họa mi.
Sinh tháng sáu: Sơn lộc.
Sinh tháng bảy: Khổng tước.
Sinh tháng tám: Cưu bột.
Sinh tháng chín: Châu tước.
Sinh tháng mười: Giốc ưng.
Sinh tháng mười một: Bạch Hạc.
Sinh tháng chạp: Phượng hoàng.
PHƯỢNG HOÀNG
Phượng Hoàng chúa các loài chim,
Mỹ miều nhan sắc, chim nào dám đương.
Lộc tài trời rộng rừng cao,
Tang bồng hồ hải tháng ngày tiêu dao.
SƯ TỬ
Sư tử số chúa sơn lâm,
Ra vào nghiên ngữa núi rừng rộng khơi.
Tự nhiên tài lộc phong dinh,
Thiên niên sớm đã dự hàng công khanh.
KIM KÊ
Kim Kê giống ấy vẻ vang,
Tiếng tăm lờng lẫy khôn ngoan mọi bề.
Có cơ xảo, có mưu cao,
Hoặc văn, hoặc võ sau thì vinh hoa.
BẠCH KÊ
Bạch Kê có số sang giàu,
Công nghệ khéo léo chẳng ai dám bì.
Làm quan nức tiếng thân cần,
Quan trên trông xuống, người ta trông vào.
BẠCH YẾN
Chim Yến khéo đẹp, lại có duyên
Lộc trời tận hưởng những ngày tuổi thơ.
Vẻ buồn chẳng cơ mảy may,
Không hay đau ốm tháng ngày ấm no.
HỌA MI
Họa Mi tuy là chim nhỏ,
Số sau này gặp bước vinh hoa.
Suốt đời tài lộc đủ dùng,
Số phong lưu ấy trời dành chẳng sai.
SƠN LỘC
Sơn Lộc là giống con hươu,
Họ hàng xa cách, tha phương tháng ngày.
Tham lam tận hưởng lộc trời,
Có vàng, có ngọc suốt đời ấm no.
KHỔNG TƯỚC
Khổng Tước nức tiếng bốn phương,
Lời khen bia miệng luôn luôn tháng ngày.
Vinh hoa phú quí ở đời,
Người sinh số ấy không giàu cũng sang.
CƯU BỘT
Cưu Bột giống này hiếu thiện,
Có tài lộc chẳng kém chi ai.
Tiền vận hao tán của tài,
Đến trung, hậu vận thảnh thơi an nhàn.
CHÂU TƯỚC
Châu Tước vốn kiêu hùng hăng hái,
Có lộc tài chức tước oai quyền.
Trong nhà con cháu sung vinh,
Ra ngoài lập nghiệp, một đời vẻ vang.
GIỐC ƯNG
Chim Giốc Ưng vốn nghinh ngang,
Rượu chè ăn uống no say ai bì.
Có quyền tước, có uy nghi,
Tuổi thơ vinh hiển đến khi tuổi già.
BẠCH HẠC
Bạch Hạc sung sướng vô hồi,
Rừng cao trời rộng chí ta vẫy vùng.
Thanh nhàn nhẹ bước thang mây,
Tuổi già tận hưởng những ngày lạc quan.
XEM CHO BIẾT TUỔI NÀO SINH THÁNG NÀO NHẰM TRỰC GÌ, TỐT HAY XẤU
(Nam Nữ coi chung)
Mười hai trực là: Kiến, Trừ, Mãn, Bính, Định, Chấp, Phá, Nguy, Thành, Thâu, Khai và Bế.
- Tuổi Tý
Sinh tháng giêng: Trực Kiến.
Sinh tháng hai: Trực Trừ.
Sinh tháng ba: Trực Mãn
Sinh tháng tư: Trực Bình.
Sinh tháng năm: Trực Định.
Sinh tháng sáu: Trực Chấp.
Sinh tháng bảy: Trực Phá.
Sinh tháng tám: Trực Nguy.
Sinh tháng chín: Trực Thành.
Sinh tháng mười: Trực Thâu.
Sinh tháng mười một: Trực Khai.
Sinh tháng chạp: Trực Bế.
- Tuổi Sửu:
Sinh tháng giêng: Trực Bế.
Sinh tháng hai: Trực Kiến
Sinh tháng ba: Trực Trừ.
Sinh tháng tư: Trực Mãn
Sinh tháng năm: Trực Bình.
Sinh tháng sáu: Trực Định.
Sinh tháng bảy: Trực Chấp.
Sinh tháng tám: Trực Phá.
Sinh tháng chín: Trực Nguy.
Sinh tháng mười: Trực Thành.
Sinh tháng mười một: Trực Thâu.
Sinh tháng chạp: Trực Khai.
- Tuổi Dần:
Sinh tháng giêng: Trực Khai.
Sinh tháng hai: Trực Bế.
Sinh tháng ba: Trực Kiến
Sinh tháng tư: Trực Trừ.
Sinh tháng năm: Trực Mãn
Sinh tháng sáu: Trực Bình.
Sinh tháng bảy: Trực Định.
Sinh tháng tám: Trực Chấp.
Sinh tháng chín: Trực Phá.
Sinh tháng mười: Trực Nguy.
Sinh tháng mười một: Trực Thành.
Sinh tháng chạp: Trực Thâu.
- Tuổi Mão:
Sinh tháng giêng: Trực Thâu.
Sinh tháng hai: Trực Khai.
Sinh tháng ba: Trực Bế.
Sinh tháng tư: Trực Kiến
Sinh tháng năm: Trực Trừ.
Sinh tháng sáu: Trực Mãn
Sinh tháng bảy: Trực Bình.
Sinh tháng tám: Trực Định.
Sinh tháng chín: Trực Chấp.
Sinh tháng mười: Trực Phá.
Sinh tháng mười một: Trực Nguy.
Sinh tháng chạp: Trực Thành.
- Tuổi Thìn:
Sinh tháng giêng: Trực Thành.
Sinh tháng hai: Trực Thâu.
Sinh tháng ba: Trực Khai.
Sinh tháng tư: Trực Bế.
Sinh tháng năm: Trực Kiến
Sinh tháng sáu: Trực Trừ.
Sinh tháng bảy: Trực Mãn
Sinh tháng tám: Trực Bình.
Sinh tháng chín: Trực Định.
Sinh tháng mười: Trực Chấp.
Sinh tháng mười một:Trực Phá.
Sinh tháng chạp: Trực Nguy.
- Tuổi Tỵ:
Sinh tháng giêng: Trực Nguy.
Sinh tháng hai: Trực Thành.
Sinh tháng ba: Trực Thâu.
Sinh tháng tư: Trực Khai.
Sinh tháng năm: Trực Bế.
Sinh tháng sáu: Trực Kiến
Sinh tháng bảy: Trực Trừ.
Sinh tháng tám: Trực Mãn
Sinh tháng chín: Trực Bình.
Sinh tháng mười: Trực Định.
Sinh tháng mười một: Trực Chấp.
Sinh tháng chạp: Trực Phá.
- Tuổi Ngọ:
Sinh tháng giêng: Trực Phá.
Sinh tháng hai: Trực Nguy.
Sinh tháng ba: Trực Thành.
Sinh tháng tư: Trực Thâu.
Sinh tháng năm: Trực Khai.
Sinh tháng sáu: Trực Bế.
Sinh tháng bảy: Trực Kiến
Sinh tháng tám: Trực Trừ.
Sinh tháng chín: Trực Mãn
Sinh tháng mười: Trực Bình.
Sinh tháng mười một: Trực Định.
Sinh tháng chạp: Trực Chấp.
- Tuổi Mùi:
Sinh tháng giêng: Trực Chấp.
Sinh tháng hai: Trực Phá.
Sinh tháng ba: Trực Nguy.
Sinh tháng tư: Trực Thành.
Sinh tháng năm: Trực Thâu.
Sinh tháng sáu: Trực Khai.
Sinh tháng bảy: Trực Bế.
Sinh tháng tám: Trực Kiến
Sinh tháng chín: Trực Trừ.
Sinh tháng mười: Trực Mãn
Sinh tháng mười một: Trực Bình.
Sinh tháng chạp: Trực Định.
- Tuổi Thân:
Sinh tháng giêng: Trực Định.
Sinh tháng hai: Trực Chấp.
Sinh tháng ba: Trực Phá.
Sinh tháng tư: Trực Nguy.
Sinh tháng năm: Trực Thành.
Sinh tháng sáu: Trực Thâu.
Sinh tháng bảy: Trực Khai.
Sinh tháng tám: Trực Bế.
Sinh tháng chín: Trực Kiến
Sinh tháng mười: Trực Trừ.
Sinh tháng mười một:Trực Mãn
Sinh tháng chạp: Trực Bình.
- Tuổi Dậu:
Sinh tháng giêng: Trực Bình.
Sinh tháng hai: Trực Định.
Sinh tháng ba: Trực Chấp.
Sinh tháng tư: Trực Phá.
Sinh tháng năm: Trực Nguy.
Sinh tháng sáu: Trực Thành.
Sinh tháng bảy: Trực Thâu.
Sinh tháng tám: Trực Khai.
Sinh tháng chín: Trực Bế.
Sinh tháng mười: Trực Kiến
Sinh tháng mười một: Trực Trừ.
Sinh tháng chạp: Trực Mãn
- Tuổi Tuất:
Sinh tháng giêng: Trực Mãn
Sinh tháng hai: Trực Bình.
Sinh tháng ba: Trực Định.
Sinh tháng tư: Trực Chấp.
Sinh tháng năm: Trực Phá.
Sinh tháng sáu: Trực Nguy.
Sinh tháng bảy: Trực Thành.
Sinh tháng tám: Trực Thâu.
Sinh tháng chín: Trực Khai.
Sinh tháng mười: Trực Bế.
Sinh tháng mười một: Trực Kiến
Sinh tháng chạp: Trực Trừ.
- Tuổi Hợi:
Sinh tháng giêng: Trực Trừ.
Sinh tháng hai: Trực Mãn
Sinh tháng ba: Trực Bình.
Sinh tháng tư: Trực Định.
Sinh tháng năm: Trực Chấp.
Sinh tháng sáu: Trực Phá.
Sinh tháng bảy: Trực Nguy.
Sinh tháng tám: Trực Thành.
Sinh tháng chín: Trực Thâu.
Sinh tháng mười: Trực Khai.
Sinh tháng mười một: Trực Bế.
Sinh tháng chạp: Trực Kiến
LỜI GIẢI MƯỜI HAI TRỰC
TRỰC KIẾN
Kiến, Thổ khai phá nhiều nơi,
Người sinh trực ấy trọn đời gian nan.
Của cha, của mẹ không ham,
Một mình thân lập bạn cùng người dưng.
Cửa nhà ăn ở chẳng an,
Năm mươi mới đặng an nhàn tấm thân.
TRỰC TRỪ
Trực Trừ, Thủy tính thật thà,
Lời ăn tiếng nói thuận hòa ngọt ngon.
Khó hèn ít cậy bà con.
Tự mình tạo lập không bòn của ai.
Cũng vì cây chẳng nên chồi,
Cho nên số ấy không trông cậy nhờ.
TRỰC MÃN
Mãn, Thổ như thảo sơn lâm,
Người sinh trực ấy thông minh ai bì.
Sinh con nuôi nấng dễ dàng,
Tìn vật, vật ở, bạn bè người ưa.
cũng vì nhờ sức non cao,
Cầm thú biết hết, lựu đào thiếu chi.
TRỰC BÌNH
Bình, Thủy như nước trong sông,
Sóng xao sao đặng thì lòng xuyên qua.
Luận xem ngôn ngữ đoán ra,
Thật thà ít nói, thuận hòa ngọt ngon.
Đàn bà thì dễ nuôi con,
Đàn ông số ấy không giàu cũng sang.
ĐỊNH
Định, Mộc cây hãy đương xanh,
Người sinh số ấy ăn chơi thanh nhàn.
Đần ông số ấy làm quan,
Đàn bà hóa khẩu ngửa ngang xẳng chồng.
Của, con có cũng như không,
Bởi cây tươi tốt, trái bông thiếu gì.
TRỰC CHẤP
Chấp, Hỏa như lửa trong xe,
Ai mà phạm đến thời nghe tưng bừng.
Chẳng giận, giận thì hành hung,
Ai phải, phải cùng; ai quấy, quấy cho.
Thuở xưa Đại Thánh thành thân,
Phá tan xe lửa cháy tiêu chẳng còn.
TRỰC PHÁ
Phá, Hỏa như lửa cháy non,
Người sinh trực ấy hao con, tổn tài.
Hết lòng, hết dạ cùng người,
Một lời chuốt ngót phủi rồi tay không.
Cũng vì hỏa pháp diệm sơn,
Nào còn biết nghĩa, biết ơn đến mình.
TRỰC NGUY
Nguy, Thủy sóng bủa ba đào,
Ngời sinh trực ấy tài cao hơn người.
Khôn ngoan, quỷ quyệt lợi lanh,
Vinh hoa có thuở, hiểm nghèo có khi.
Đàn ông sang trọng ai bì,
Đàn bà cắn đắng, con thì khó nuôi.
TRỰC THÀNH
Thành, Kim vàng đúc song phi,
Một đôi song kiếm ai mà dám đương.
Khôn ngoan trí huệ thông minh,
Số người khéo léo, lập binh cầm quyền.
Đàn ông sạch việc mỹ miều,
Đàn bà lận đận, vui chiều buồn mai.
TRỰC THÂU
Trực Thâu như nước trong ao,
Tuy không chỗ chứa mà còn tự nhiên.
Bông sen mọc tận dưới bùn,
Khi nở đỏ thắm, mùi hương ngạt ngào.
TRỰC KHAI
Khai, Kim vàng đúc một đời,
Kẻ đòi đũ xuyến, người đòi đúc trâm.
Đàn ông chức phận trong dòng,
Đàn bà đưa đẩy trong lòng bao dung.
TRỰC BẾ
Bế, Hỏa tợ lửa mới nhen,
Người sinh trực ấy hao công tốn tiền.
Một mình không cậy nhờ ai,
Nam tần, bắc hải một mình lập thân.
THẬP CAN CHIẾT TỰ
Thập Can có mười chữ là: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý. Mỗi chữ hiện ra hợp với vận mạng tốt xấu, sang, hèn v.v... của mỗi người Nam và Nữ.
CHỮ GIÁP
(Giáp Tý, Giáp Tuất, Giáp Thân, Giáp Ngọ, Giáp Thìn, Giáp Dần)
Nhân sinh Giáp tự biến thành Điền,
Phú quí vinh hoa thực lộc thiên.
Phụ mẫu huynh đệ tha biệt sở,
Phu thê nhị đại hậu song toàn.
Chữ Giáp số có đất điền,
Bằng không cũng hưởng lộc tài tự nhiên.
Anh em nào có cậy trông,
Tha phương lập nghiệp mà nên cửa nhà.
Vợ chồng thay đổi nhiều lần,
Trai thay đổi vợ, gái thay đổi chồng.
Cho hay duyên số tại trời,
Khá làm âm đức, phúc dành hậu lai.
Số này tuổi nhỏ tay không,
Lớn lên có của,vợ chồng làm nên.
ẤT
(Ất Hợi, Ất Dậu, Ất Mùi, Ất Tỵ, Ất Mão, Ất Sửu)
Nhân sinh Ất tự biến thành Vong,
Gia thất tiền tài tất thị không.
Lục súc tị phiền du vong bại,
Phu thê biến cải định nan phùng.
Người sinh chữ Ất gian nan,
Lắm khi dào dạt, lắm lần tay không.
Nuôi vật, vật cũng tang thương,
Ở cùng bậu bạn chẳng phần đặng yên.
Vợ chồng thay đổi lương duyên,
Trai thay đổi vợ, gái thay đổi chồng.
Số này sớm cách quê hương,
Ra ngoài lập nghiệp mới nên cửa nhà.
Cho nên số ở Thiên tào,
Người hiền lận đận, tuổi già nhờ con.
CHỮ BÍNH
(Bính Dần, Bính Tý, Bính Tuất, Bính Thân, Bính Ngọ, Bính Thìn)
Nhân sinh Bính tự biến thành Tù,
Lxo thiểu vô an hạn bất chu.
Sở hữu ngoại nhân y hữu định,
Thân cư quan quỉ bá niên trường.
Chữ Bính số cũng quạnh hiu,
Người sinh chữ ấy trọn đời âu lo.
Tuổi nhỏ bịnh hoạn ốm đau,
Lớn tuổi cô quạnh một mình thảm thương.
Số này lập nghiệp tha phương,
Có chí tu niệm kính tin Phật Trời.
Nếu mà giữ dạ hiền lương,
Tuổi già sẽ được lộc tài tự nhiên.
Những người có chí thiện nhân,
Có khi lao khổ, có ngày thảnh thơi.
CHỮ ĐINH
(Đinh Mão, Đinh Sửu, Đinh Hợi, Đinh Dậu, Đinh Mùi, Đinh Tỵ)
Nhân sinh Đinh tự biến thành Du,
Gia thất tiền tài thường đảo lộn.
Thiếu niên lao khổ uổng công phu,
Trung vận trùng lai phú đắc vinh.
Chữ Đinh biến thành chữ Du,
Số nhỏ tật bịnh ốm đau thường thường.
Lắm lần tai nạn thảm thương.
Nhờ có hồng phúc Phật Trời chở che.
Lớn lên thông tuệ khác thường,
Có quyền có chức, có tài tự nhiên.
Có chí sáng tác mọi ngành,
Có tài có đức cầm quyền điểm binh.
Xét xem qua số nợ duyên,
Trai đôi ba vợ, gái thì truân chuyên.
Nết na, đức hạnh dung hòa,
Nhưng mà cũng chịu vui chiều buồn mai.
Cho hay căn số tự Trời,
Duyên đầu lỡ dở, hiệp hòa duyên sau.
Có căn tích thiện tu nhân,
Tuổi già chung hưởng lộc tài ấm no.
CHỮ MẬU
(Mậu Thìn, Mậu Tý, Mậu Tuất, Mậu Thân, Mậu Ngọ, Mậu Dần)
Nhân sinh Mậu tự biến thành Quả,
Phiêu phất tha phương định thất gia.
Cô độc một thân không chỗ định,
Hành thân phảm mại lạc ngâm nga.
Chữ Mậu cô quạnh tha phương,
Lìa nhà, lìa xứ, lắm lần gian nan.
Anh em ruột thịt chẳng hòa,
Tha phương bậu bạn chỉ nhờ người dưng.
Gái thì lận đận lương duyên,
Khi thì vui vẻ, khi tan nát lòng.
Đôi lần mới dặng thành song,
Tuổi trẻ lao khổ, tuổi già nhờ con.
Tính hay tích thiện từ hòa,
Tin Trời tưởng Phật, lòng hằng ái tha.
Những ai có chí tu nhân,
Tuy rằng hoạn nạn, phúc còn hậu lai.
CHỮ KỶ
(Kỷ Ty, Kỷ Mão. Kỷ Sửu, Kỷ Hợi, Kỷ Dậu, Kỷ Mùi)
Nhân sinh Kỷ tự biến thành Ân,
Gia thất tiền tài mạng giàu sang.
Gia sự đa tài, sinh con thảo,
Hữu thời tấn thối tợ phi vân.
Chữ Kỷ biến thành chữ Ân,
Tính tành mau mắn, làm ơn cho người.
Tấm lòng trung trực vẹn bề,
Làm ơn nên oán nhiều lần lo toan.
Của, con có sẵn tuổi già,
Tuổi trẻ lao khổ, tha phương lập thành.
Nhiều khi tụ tán như sương,
Khi ăn chẳng hết, lúc thì tay không.
Nợ duyên tan vỡ buồn lòng,
Đôi lần ly hiệp mới nên gia đình.
Khá nên tích thiện tu thân,
Tuổi già sẽ thấy môn đình sum vinh.
CHỮ CANH
(Canh Ngọ, Canh Thìn, Canh Dần, Canh Tý, Canh Tuất, Canh Thân)
Nhân sinh Canh tự biến thành Cô,
Số ấn công hầu lưu đất khách.
Gia thất gây nên thừa tổ đức,
Phúc tài tái tận mãi vinh hoa.
Chữ Canh biến thành chữ Cô,
Số ấn công hầu nên danh phận.
Bằng không thì cũng lắm nghề khép thay.
Vợ chồng cách trở sơn xuyên,
Đôi lần ly hiệp mới nên cửa nhà.
Gái thì hiu quạnh muộn màng,
Bằng không thì cũng đôi lần mới nên.
Số này tu niệm thì hay,
Hậu lai sẽ hưởng phúc dày lộc cao.
Có đâu thiên vị người nào,
Số cao thì hưởng lộc tài tự nhiên.
CHỮ TÂN
(Tân Mùi, Tân Tỵ, Tân Mão, Tân Sửu, Tân Hợi, Tân Dậu)
Nhân sinh Tân tự biến thành Tan,
Tính khí hiền lương, lập nghiệp nan.
Phu phụ nhất tâm lưỡng nhân thú,
Bằng hữu cự tộc rất vinh quang.
Chữ Tân biến thành chữ Tan,
GHia đình dời đổi đắng cay muôn vàn.
Một thân tự lập mà nên,
Tha phương lắm độ, phong sương hải tần.
Lương duyên thay đổi đôi lần,
Tuổi già phú túc miên miên thọ trường.
Những người có chí thiện nhân,
Trời dành hậu quả hưởng nhờ phúc dư.
CHỮ NHÂM
(Nhâm Thân, Nhâm Ngọ, Nhâm Thìn, Nhâm Dần, Nhâm Tý, Nhân Tuất)
Nhân sinh Nhâm tự biến thành Vương,
Thân thọ mạng trường thiên số chung.
Tị hiểm hung đồ tha biệt sở,
Thân cư quan quí hậu an khương.
Chữ Nhâm biến thành cữ Vương,
Thân thì thọ số, mạng thì vinh sang.
Có lần cách trở gia hương.
Xứ xa lập nghiệp, vinh sang ai bì.
Số này tổ nghiệp không nhờ,
Thân lưu đất khách lập nên cơ đồ.
Trai thì vợ đôi vợ ba,
Gái thì số cũng đôi lần mới nên.
Khá nên tích đức thiện nhân,
Hậu lai sẽ hưởng phúc trời ấm no.
CHỮ QUÝ
(Quý Dậu, Quý Sửu, Quý Tỵ, Quý Hợi, Quí Mùi, Quý Mão)
Nhân sinh Quý tự biến thành Thiên,
Tiền hậu phu thê lộc y nhiên.
Chức phận văn chương đa phú quí.
Trí huệ vinh hoa hưởng thọ trường.
Chữ Quý biến thành chữ Thiên,
Trai thời chức phận, gái thời chính chuyên.
Số này cũng có đất điền,
Gia môn phú quí thọ trường bền lâu.
Vợ chồng hòa thuận đủ điều,
Khi ra phong nhã, khi vào hào hoa.
Nếu mà tích thiện tu thêm,
Ngày sau con cháu miên miên cửu trường.
Bản đồ trên đây luận theo tháng đủ hay tháng thiếu.
Thí dụ: Nếu tháng đủ thì khởi mùng một tại chữ Phu, rồi đếm thuận qua chữ Cô (xem hình có dấu mũi tên). Như dùng ngày mùng 10 thì trúng chữ Cô, ngày 11 trúng chữ Đường, ngày 12 trúng chữ Ông. Đếm thuận chiều như vậy, đến chỗ ngày muốn tìm thì trụ tại chữ ấy.
Tháng thiếu khởi mùng Một tại chữ Phu, đếm ngược chiều qua chữ Táo (xem hình có dấu mũi tên). Dùng ngày nào thì trụ tại chữ ấy.
Nếu trúng bốn chữ: Đệ, Đường, Trù, Táo là tốt. Còn trúng chữ Ông và Cô mà không có cha mẹ bên chồng là không kỵ. Bằng nhằm chữ Phu hay chữ Phụ là chính kỵ (không tốt).
Bản đồ này là trai về ở nhà gái.
Tháng đủ khởi mùng một tại chữ Phu, đếm thuận qua chữ Cô (xem mũi tên). Đếm tới như thế nếu dùng ngày nào thì trụ tại chữ ấy.
Tháng thiếu khởi mùng một tại chữ Hộ rồi đếm xuống chữ Trù (xem mũi tên), nếu muốn dùng ngày nào thì trụ tại chữ ấy.
Nếu nhằm bốn chữ: Môn, Hộ, Trù, Táo là tốt, nên dùng. Còn nhằm hai chữ Ông và Cô là kỵ, hay là trúng hai chữ Phu và Phụ cũng là chính kỵ.
THÁNG ĐẠI LỢI
Gái xuất giá (Về nhà chồng)
Tuổi gái xuất giá:
- Tý, Ngọ:
Tháng 06 - 12: Đại lợi.
Tháng 01 - 07: Phòng Mai nhân, Tiểu lợi.
Tháng 02 - 08: Phòng Ông, Cô.
Tháng 03 - 09: Phòng nữ Phụ mẫu.
Tháng 04 - 10: Phòng Phu chủ.
Tháng 05 - 11: Phòng Nữ thân.
- Sửu, Mùi:
Tháng 05 - 11: Đại lợi.
Tháng 04 - 10: Phòng Mai nhân, Tiểu lợi.
Tháng 03 - 09: Phòng Ông, Cô.
Tháng 02 - 08: Phòng nữ Phụ mẫu.
Tháng 01 - 07: Phòng Phu chủ.
Tháng 06 - 12: Phòng Nữ thân.
- Dần, Thân:
Tháng 02 - 08: Đại lợi.
Tháng 03 - 09: Phòng Mai nhân, Tiểu lợi.
Tháng 04 - 10: Phòng Ông, Cô.
Tháng 05 - 11: Phòng nữ Phụ mẫu.
Tháng 06 - 12: Phòng Phu chủ.
Tháng 01 - 07: Phòng Nữ thân.
Mão, Dậu:
Tháng 01 - 07: Đại lợi.
Tháng 06 - 12: Phòng Mai nhân, Tiểu lợi.
Tháng 05 - 11: Phòng Ông, Cô.
Tháng 04 - 10: Phòng nữ Phụ mẫu.
Tháng 03 - 09: Phòng Phu chủ.
Tháng 02 - 08: Phòng Nữ thân.
- Thìn, Tuất:
Tháng 04 - 10: Đại lợi.
Tháng 05 - 11: Phòng Mai nhân, Tiểu lợi.
Tháng 06 - 12: Phòng Ông, Cô.
Tháng 01 - 07: Phòng nữ Phụ mẫu.
Tháng 02 - 08: Phòng Phu chủ.
Tháng 03 - 09: Phòng Nữ thân.
- Tỵ, Hợi:
03 - 09: Đại lợi.
Tháng 02 - 09: Phòng Mai nhân, Tiểu lợi.
Tháng 01 - 07: Phòng Ông, Cô.
Tháng 06 - 12: Phòng nữ Phụ mẫu.
Tháng 05 - 11: Phòng Phu chủ.
Tháng 04 - 10: Phòng Nữ thân.
Phàm dùng tháng Đại Lợi thì đặng trọn tốt. Như muốn dùng Tiểu Lợi thì "Phòng mai nhân" nghĩa là kỵ ông mai hay là bà mai. Còn không có ông bà mai thì được.
Nếu như "Phòng ông cô" mà không có cha mẹ bên chồng thì được. Như "Phòng nữ phụ mẫu" mà không có cha mẹ bên gái là được.
- Phòng phu chủ là kỵ chính người trai.
- Phòng nữ thân là kỵ chính người gái.
- Phòng ông cô là kỵ cha mẹ bên chồng.
- Phòng nữ phụ mẫu là kỵ cha mẹ bên gái.
NĂM HUNG NIÊN
TRAI KHÔNG NÊN CƯỚI VỢ, GÁI KHÔNG NÊN LẤY CHỒNG
- Tuổi con trai:
Tý, năm hung niên: Mùi.
Sửu, năm hung niên: Thân.
Dần, năm hung niên: Dậu.
Mão, năm hung niên: Tuất.
Thìn, năm hung niên: Hợi.
Tỵ, năm hung niên: Tý.
Ngọ, năm hung niên: Sửu.
Mùi, năm hung niên: Dần.
Thần, năm hung niên: Mão.
Dậu, năm hung niên: Thìn.
Tuất, năm hung niên: Tỵ.
Hợi, năm hung niên: Ngọ.
- Tuổi con gái:
Tý, năm hung niên: Mão.
Sửu, năm hung niên: Dần.
Dần, năm hung niên: Sửu.
Mão, năm hung niên: Tý.
Thìn, năm hung niên: Hợi.
Tỵ, năm hung niên: Tuất.
Ngọ, năm hung niên: Dậu.
Mùi, năm hung niên: Thân.
Thân, năm hung niên: Mùi.
Dậu, năm hung niên: Ngọ.
Tuất, năm hung niên: Tỵ.
Hợi, năm hung niên: Thìn.
Phàm trai hay gái mà gặp nhằm năm hung niên thì không nên thành hôn, vì năm ấy rất khắc kỵ.
THIÊN CAN VÀ ĐỊA CHI TỪNG THÁNG
Năm nào cũng:
- Tháng giêng là tháng Dần.
- Tháng hai là tháng Mão.
- Tháng ba là tháng Thìn.
- Tháng tư là tháng Tỵ.
- Tháng năm là tháng Ngọ.
- Tháng sau là tháng Mùi.
- Tháng bảy là tháng Thân.
- Tháng tám là tháng Dậu.
- Tháng chín là tháng Tuất.
- Tháng mười là tháng Hợi.
- Tháng mười một là tháng Tý.
- Tháng chạp là tháng Sửu.
Những tháng nhuần thì 15 ngày trên thuộc về Địa chi của tháng trước và 15 ngày dưới thuộc về Địa chi của tháng sau.
Thiên Can thì cứ 5 năm là đủ 60 tháng (không kể tháng nhuần) rồi bắt đầu trở lại.
LỤC HẠI
(Lấy nhau không hạp)
- Tuổi Tý kỵ tuổi Mùi.
- Tuổi Dần kỵ tuổi Tỵ.
- Tuổi Thân kỵ tuổi Hợi.
- Tuổi Sửu kỵ tuổi Ngọ.
- Tuổi Mão kỵ tuổi Thìn.
- Tuổi Dậu kỵ tuổi Tuất.
TỨ TUYỆT
(Lấy nhau không hạp)
- Tuổi Tý kỵ tuổi Tỵ.
- Tuổi Dậu kỵ tuổi Dần.
- Tuổi Ngọ kỵ tuổi Hợi.
- Tuổi Mão kỵ tuổi Thân.
BÀO THAI
Những tháng sinh của trai kỵ tháng sinh của gái
(Lấy nhau không hạp)
Trai sinh tháng giêng, tháng bảy kỵ gái sinh tháng tư, tháng mười.
Trai sinh tháng hai, tháng tám kỵ gái sinh tháng hai, tháng tháng mười một.
Trai sinh tháng ba, tháng chín kỵ gái sinh tháng sáu, tháng chạp.
Trai sinh tháng tư, tháng mười kỵ gái sinh tháng hai, tháng mười.
Trai sinh tháng năm, tháng mười một kỵ gái sinh tháng hai, tháng tám.
Trai sinh tháng sáu, tháng chạp kỵ gái sinh tháng ba, tháng chín.
MƯỜI THIÊN CAN KỴ VÀ HẠP LẤY NHAU TỐT HAY XẤU
Bảng lập thành dưới đây chỉ rõ tuổi trai có chữ gì, nên lấy vợ có chữ nào hay không nên lấy vợ có chữ gì.
Tuổi trai có chữ:
- Giáp nên lấy vợ tuổi có chữ Kỷ, không nên lấy vợ tuổi có chữ Canh.
- Ất nên lấy vợ tuổi có chữ Canh, không nên lấy vợ tuổi có chữ Tân.
- Bính nên lấy vợ tuổi có chữ Tân, không nên lấy vợ tuổi có chữ Nhâm.
- Đinh nên lấy vợ tuổi có chữ Nhâm, không nên lấy vợ tuổi có chữ Quý.
- Mậu nên lấy vợ tuổi có chữ Quý, không nên lấy vợ tuổi có chữ Giáp.
- Kỷ nên lấy vợ tuổi có chữ Giáp, không nên lấy vợ tuổi có chữ Ất.
- Canh nên lấy vợ tuổi có chữ Ất, không nên lấy vợ tuổi có chữ Bính.
- Tân nên lấy vợ tuổi có chữ Bính, không nên lấy vợ tuổi có chữ Đinh.
- Nhâm nên lấy vợ tuổi có chữ Đinh, không nên lấy vợ tuổi có chữ Mậu.
- Quý nên lấy vợ tuổi có chữ Mậu, không nên lấy vợ tuổi có chữ Kỷ.
PHÉP XEM TUỔI CƯỚI GẢ KHẮC HAY HẠP
(Chọn sẵn Thiên Can của trai so với tuổi của gái)
Khi xem tuổi phải lựa Thiên Can coi xuống 12 Địa chi của tuổi gái, như hạp nhau thì đặng hòa thuận suốt đời và sinh con mạnh khỏe, thông minh và ít bị bệnh tật.
- Thiên Can là: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý.
- Mười hai Địa chi là: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
Dưới đây là bảng chọn lựa tuổi trai có chữ gì, cưới tuổi gái trong 12 chi nào, tốt hay xấu, khắc hay hạp.
TRAI (THIÊN CAN) LẤY VỢ (ĐỊA CHI) TỐT HAY XẤU
Trai có chữ Giáp lấy mười hai tuổi dưới đây:
- Giáp lấy vợ Tý: Có con cái đều đặng danh dự và quyền thế, nhưng không có âm đức về sau.
- Giáp lấy vợ Sửu, Dần: Có con không đặng nhờ vì con không hiếu hạnh.
- Giáp lấy vợ Mão: Vợ chồng không an toàn hoặc có hư thai.
- Giáp lấy vợ Thìn: Có con cháu không vẹn toàn.
- Giáp lấy vợ Tỵ: Tình chồng nghĩa vợ dở dang, chẳng đặng bền lâu.
- Giáp lấy vợ Ngọ, Mùi: Có con khó nuôi đến lớn.
- Giáp lấy vợ Thân: Con cháu đươc thi đổ nhiều khoa, nhưng rồi cũng không bền.
- Giáp lấy vợ Dậu, Tuất: Cửa nhà vẻ vang, con cái thi đổ thành công, con quí, rễ hiền.
- Giáp lấy vợ Hợi: Con cháu đặng thi đổ, trước vinh sau nhục, trước giàu sau nghèo.
Trai có chữ Ất lấy mười hai tuổi dưới đây:
- Ất lấy vợ Tý: Con gái đặng thi đổ, nhưng phải chịu gian nan thuở nhỏ, sung sướng về tuổi già.
- Ất lấy vợ Sửu, Dần: Sinh con cháu thi đổ nhiều, nhưng cũng phải trước giàu sau nghèo.
- Ất lấy vợ Mão: Nếu không có con thì mới đặng an nhàn.
- Ất lấy vợ Thìn, Tỵ: Sinh con sang trọng, đặng công thành danh toại.
- Ất lấy vợ Ngọ: Vợ chồng được song toàn, đại lợi, nhưng sau cũng sinh buồn phiền.
- Ất lấy vợ Mùi: Được giàu sang vinh hiển, sinh con cháu đặng thi đổ nhiều khoa.
- Ất lấy vợ Thân: Có thi đổ những sau cũng không có lợi.
- Ất lấy vợ Dậu: Vợ chồng khó đặng toàn vẹn, từ 30 tuổi trở lên mới biết sự hay dở.
- Ất lấy vợ Tuất, Hợi: Vợ chồng trước nghèo sau giàu.
Trai có chữ Bính lấy mười hai tuổi dưới đây:
- Bính lấy vợ Tý: Người vợ sinh sản khó, nhưng nuôi được thì được danh thơm, trước sau cũng được giàu sang đại lợi. Nếu có vợ lẻ thì người vợ lẻ ấy sẽ sinh con trai.
- Bính lấy vợ Sửu: Vợ chồng làm ăn khó nhọc, sau sẽ có lợi; sinh con trai thi đổ, nhưng con phải có tạt bịnh mới có thể nuôi đặng đến lớn.
- Bính lấy vợ Dần: Vợ chồng khi lìa khi hiệp, rồi sau cũng đặng sum vầy, sinh con trai thi đổ vì đặng chữ "Phùng xuân" ứng.
- Bính lấy vợ Mão Thìn: Làm ăn lúc thạnh lúc suy, nhiều con chẳng thành đạt, dù có lúc phong lưu cũng vô ích.
- Bính lấy vợ Tỵ: Phú quí vinh hoa, sung sướng đến trọn đời, con cháu cũng hiển đạt.
- Bính lấy vợ Ngọ, Mùi: Vợ chồng đặng giàu sang đại lợi, từ 40 tuổi trở lên sẽ có tiểu tật, con đặng thi đổ.
- Bính lấy vợ Thân: Vợ chồng làm ăn trước phải chịu gian nan, sau sẽ đặng phú túc, tích thiểu thành đa, cần kiệm sẽ khá.
- Bính lấy vợ Dậu: Vợ chồng đặng song toàn, trước nghèo sau giàu, có con cái ít.
- Bính lấy vợ Tuất, Hợi: Có con khó nuôi, vợ chồng trước hiệp sau lìa.
Trai có chữ Đinh lấy mười hai tuổi dưới đây:
- Đinh lấy vợ Tý, Sửu: Vợ chồng rất gian truân, chẳng đặng yên ổn, con cái cũng khó nuôi hoặc nghèo nàn.
- Đinh lấy vợ Dần: Trước lành sau dở, khó được bền duyên tơ tóc.
- Đinh lấy vợ Mão: Tình duyên vui vầy và hạnh phúc, có con cháu đông.
- Đinh lấy vợ Thìn: Có hai đứa con đặng thi đổ, quan tước hiển vinh, nếu có vợ lẻ cũng đặng giàu sang.
- Đinh lấy vợ Tỵ: Trước sau cũng đặng giàu sang, con cái thi đổ thành danh và đại lợi.
- Đinh lấy vợ Ngọ, Mùi: Sinh con gái đầu lòng không đặng đại lợi, cửa nhà ắt bị hao tổn, phải nuôi con nuôi thì con ruột mới dễ được, hay là lấy vợ lẻ thì đặng toàn hảo thủy chung.
- Đinh lấy vợ Thân, Dậu: Được quyền cao tước trọng, nhưng sau cũng bị mất chức, trước hay sau dở.
- Đinh lấy vợ Tuất: Vợ chồng phải tha phương sữ ngoài mới được hào phú đại lợi, có quyền quí, sinh con gái đặng song toàn.
- Đinh lấy vợ Hợi: Trước có cửa nhà huy hoàng, sau gặp lúc phong ba, nếu là quan quyền thì lận đận lắm.
Trai có chữ Mậu lấy mười hai tuổi dưới đây:
- Mậu lấy vợ Tý: Vợ chồng đặng sum vầy, phú quí vinh hoa trước sau đều đại lợi, con cháu cũng đặng giàu sang.
- Mậu lấy vợ Sửu, Dần: Trai gái đều đặng toàn vẹn, vợ chồng song toàn hạnh phúc.
- Mậu lấy vợ Mão: Vợ chồng làm ăn đủ dùng, nếu tha phương làm ăn lại càng hay, thuở đầu hơi gian nan, về sau sung sướng.
- Mậu lấy vợ Thìn: Trước phải chịu cảnh gian truân, về sau mới đặng vinh hiển, lại e tình duyên không đặng vẹn toàn.
- Mậu lấy vợ Tỵ, Ngọ: Khó bề đặng phú quí, nếu trai gáiđều toàn thì sinh biến, không biến thì cửa nhà phải tiêu tan, dù cho có quan lộc cũng phải biến.
- Mậu lấy vợ Mùi, Thân: Trước sau đều đặng đại lợi, sinh con nhiều và trọn vẹn.
- Mậu lấy vợ Dậu: Lúc đầu đại lợi sau rồi vô ích, nếu lấy vợ lẻ thì sinh con trai được trọng quyền.
- Mậu lấy vợ Tuất, Hợi: Không nhờ con cái, đi tha phương làm ăn càng tốt.
Trai có chữ Kỷ lấy mười hai tuổi dưới đây:
- Kỷ lấy vợ Tý: Vợ chồng làm ăn thạnh vượng, nhưng trước phải chịu nghèo, sau mới đặng giàu.
- Kỷ lấy vợ Sửu, Dần: Sinh con trai khó nuôi đến lớn, đi làng khác mới được yên, vợ lẻ sinh con dễ nuôi hơn.
- Kỷ lấy vợ Mão, Thìn: Phải tha phương mới nên sự nghiệp, giàu sang và sinh con trai, sau không có con gái là khí âm tiêu hết.
- Kỷ lấy vợ Tỵ, Ngọ: Gặp thời thì thạnh, lỗi mùa thì suy, vợ chồng cách trở tha phương, chẳng chết thì cũng chia lìa đôi ngã, đời vợ sau mới sinh con trai.
- Kỷ lấy vợ Mùi, Thân: Vợ chồng được trường cửu, hạnh phúc song toàn, nhiều con thi đổ cao và vinh sang trọn đời
- Kỷ lấy vợ Dậu: Vợ chồng khó đặng bền lâu, phải ly biệt, nếu ăn ở với nhau được thì cũng thường đau ốm bịnh tật.
- Kỷ lấy vợ Tuất: Sinh con chẳng đặng nhờ vì con bất hiếu, dẫu con có thi đổ cao cũng phải chịu khổ về sau.
- Kỷ lấy vợ Hợi: Vợ chồng hạnh phúc song toàn, nhà cửa phú quí, con cháu đông đủ và thi đổ cao.
Trai có chữ Canh lấy mười hai tuổi dưới đây:
- Canh lấy vợ Tý, Sửu: Lấy nhau gặp thời thì tốt, nếu không thì dù sinh con trai hay gái trọn đời cũng không có gì là vinh hiển.
- Canh lấy vợ Dần, Mão: Trước phải gian truân, sau mới sung sướng giàu sang, có con thi đổ cao.
- Canh lấy vợ Thìn, Tỵ: Vợ chồng ăn ở hiền lương thì đặng phú quí và nhiều con, nếu thất đức thì phải nghèo nàn.
- Canh lấy vợ Ngọ: Tự mình lập thân chẳng nhờ cậy ai, khoa danh hiển đạt, lộc hưởng tự nhiên.
- Canh lấy vợ Mùi Thân: Đời vợ trước không đặng vẹn bền, đời sau mới đặng giai lão.
- Canh lấy vợ Dậu: Lúc đầu hòa hiệp, về sau có phần khó khăn, trước nghèo sau khá.
- Canh lấy vợ Tuất Hợi: Đời vợ trước chẳng đặng trọn tình, lấy vợ sau mới vững bền và sinh đặng quí tử (con thảo).
Trai có chữ Tân lấy mười hai tuổi dưới đây:
- Tân lấy vợ Tý: Nếu cưới vợ sớm thì dù có con cũng không thành đạt, hay là sinh con khó nuôi đến lớn, lấy vợ sau mới đại lợi.
- Tân lấy vợ Sửu, Dần: Không được hào con, làm ăn trước thạnh sau suy.
- Tân lấy vợ Mão: Tự nhiên phú quí, nhưng có con thi đổ thì chết, trước nghèo sau giàu.
- Tân lấy vợ Thìn, Tỵ: Sinh con gái dễ nuôi hơn con trai, đặng của cải quan lộc.
- Tân lấy vợ Ngọ: Làm ăn được hoàn toàn thịnh vượng, sinh con gái hiếu thảo.
- lấy vợ Mùi, Thân: Trước giàu sang, sau lại nghèo, con cái khó nuôi, lúc tuổi già bệnh tật liên miên.
- Tân lấy vợ Dậu: Công danh toại nguyện, được giàu sang nhưng vất vả, có con khó nuôi đến lớn.
- Tân lấy vợ Tuất, Hợi: Vợ gặp sự sinh sản khó, vợ chồng bất chính.
Trai có chữ Nhâm lấy mười hai tuổi dưới đây:
- Nhâm lấy vợ Tý: Vợ chồng sẽ có tật bịnh, thường gặp sự thưa kiện, dầu sinh con trai hay con gái cũng không vẹn toàn.
- Nhâm lấy vợ Sửu, Dần: Sinh nhiều con gái, nếu có con trai dầu có thi đổ cũng thất chức.
- Nhâm lấy vợ Mão: Sinh con trai hay gái đều vẹn toàn, song chẳng nhờ con, có thi đổ cao cũng không đặng chức phận.
- Nhâm lấy vợ Thìn: Sau phải chịu cảnh nghèo khổ, mặc dù thuở trước giàu sang, trở về già thường hay bịnh tật.
- Nhâm lấy vợ Tỵ: Dù đặng giàu sang, nhưng sinh con cũng khó nuôi (thất hào con), từ 40 tuổi trở lên lập nghiệp khó khăn, lấy vợ sau mới được yên vui.
- Nhâm lấy vợ Ngọ: Tuổi trẻ làm ăn thịnh vượng, con gái hay trai đều song toàn, nhưng từ 40 tuổi trở lên về sau bị bệnh tật không toàn.
- Nhâm lấy vợ Mùi: Tự nhiên có tài lộc và quan chức, tuổi già mắc tật bịnh.
- Nhâm lấy vợ Thân: Sinh con chẳng toàn, được giàu sang song chẳng đặng thọ.
- Nhâm lấy vợ Dậu: Vợ chồng không toàn vẹn, có nhiều sự gây gổ trong gia đình.
- Nhâm lấy vợ Tuất, Hợi: Được phú quí thạnh vượng, đông con cái và nhiều lộc trời ban.
Trai có chữ Quý lấy mười hai tuổi dưới đây:
- Quý lấy vợ Tý: Đặng giàu sang, con cái thi đổ cao, nếu tha phương thì có nhiều đại lợi.
- Quý lấy vợ Sửu, Dần: Có vợ ở xa xứ, đặng phú quí đại lợi, học hành thi đổ.
- Quý lấy vợ Mão: Ăn ở lưc nhỏ hợp nhau, lớn ắt phải xa lìa, có thể có chức vị quan tước.
- Quý lấy vợ Thìn, Tỵ: Đặng phú quí đại lợi, lấy vợ xa xứ rất tốt.
- Quý lấy vợ Ngọ: Trước nghèo nàn, sau sẽ đặng phú quí đại lợi, nhiều của cải, con cháu thi đổ cao.
- Quý lấy vợ Mùi, Thân: Đặng quan tước cao, công thành danh toại.
- Quý lấy vợ Dậu: Dù có chức tước cũng không đặng trọn vẹn, chẳng việc gì đặng toại nguyện.
- Quý lấy vợ Tuất, Hợi: Trước tốt sau xấu, trước thành sau bại, dù có hay một lúc rồi cũng gian nan.
BẢNG SỐ ĐÔI TUỔI VỢ CHỒNG THUỘC CUNG,
(Gọi là Bát San)
Chồng cung Càn lấy vợ cung gì, tốt hay xấu
- Cung Càn lấy vợ cung Càn: Phục vị (Tốt vừa).
- Cung Càn lấy vợ cung Cấn: Phúc đức (Thật tốt).
- Cung Càn lấy vợ cung Khôn: Sinh khí (Thật tốt).
- Cung Càn lấy vợ cung Đoài: Duyên niên (Thật tốt).
- Cung Càn lấy vợ cung Khảm: Lục sát (Thật xấu).
- Cung Càn lấy vợ cung Chấn: Ngũ quỉ (Thật xấu).
- Cung Càn lấy vợ cung Tốn: Họa hại (Thật xấu).
- Cung Càn lấy vợ cung Ly: Tuyệt mạng (Xấu vừa).
Chồng cung Khảm lấy vợ cung gì, tốt hay xấu
- Cung Khảm lấy vợ cung Khảm: Phục vị (Tốt vừa).
- Cung Khảm lấy vợ cung Chấn: Thiên y (Thật tốt).
- Cung Khảm lấy vợ cung Tốn: Sinh khí (Thật tốt).
- Cung Khảm lấy vợ cung Ly: Phúc đức (Thật tốt).
- Cung Khảm lấy vợ cung Càn: Lục sát (Thật xấu).
- Cung Khảm lấy vợ Cấn: Ngũ quỉ (Thật xấu).
- Cung Khảm lấy vợ cung Khôn: Tuyệt mạng (Xấu vừa).
- Cung Khảm lấy vợ cung Đoài: Họa hại (Thật xấu).
Chồng cung Cấn lấy vợ cung gì, tốt hay xấu
- Cung Cấn lấy vợ cung Cấn: Phục vị (Tốt vừa).
- Cung Cấn lấy vợ cung Càn: Thiên y (Thật tốt).
- Cung Cấn lấy vợ cung Khôn: Tốn: Sinh khí (Thật tốt).
- Cung Cấn lấy vợ cung Đoài: Duyên niên (Thật tốt).
- Cung Cấn lấy vợ cung Khảm: Ngũ quỉ (Thật xấu).
- Cung Cấn lấy vợ cung Chấn: Lục sát (Thật xấu).
- Cung Cấn lấy vợ cung Tốn: Tuyệt mạng (Xấu vừa).
- Cung Cấn lấy vợ cung Ly: Họa hại (Thật xấu).
Chồng cung Chấn lấy vợ cung gì, tốt hay xấu
- Cung Chấn lấy vợ cung Chấn: Phục vị (Tốt vừa).
- Cung Chấn lấy vợ cung Khảm: Thiên y (Thật tốt).
- Cung Chấn lấy vợ cung Tốn: Duyên niên (Thật tốt).
- Cung Chấn lấy vợ cung Ly: Sinh khí (Thật tốt).
- Cung Chấn lấy vợ cung Càn: Lục sát (Thật xấu).
- Cung Chấn lấy vợ cung Cấn: Ngũ quỉ (Thật xấu).
- Cung Chấn lấy vợ cung Khôn: Họa hại (Thật xấu).
- Cung Chấn lấy vợ cung Đoài: Tuyệt mạng (Xấu vừa).
Chồng cung Tốn lấy vợ cung gì, tốt hay xấu
- Cung Tốn lấy vợ cung Tốn: Phục vị (Tốt vừa).
- Cung Tốn lấy vợ cung Khảm: Sinh khí (Thật tốt).
- Cung Tốn lấy vợ cung Chấn: Phúc đức (Thật tốt).
- Cung Tốn lấy vợ cung Ly: Thiên y (Thật tốt).
- Cung Tốn lấy vợ cung Càn: Họa hại (Thật xấu).
- Cung Tốn lấy vợ cung Cấn: Tuyệt mạng (Xấu vừa).
- Cung Tốn lấy vợ Khôn: Ngũ quỉ (Thật xấu).
- Cung Tốn lấy vợ cung Đoài: Lục sát (Thật xấu).
Chồng cung Ly lấy vợ cung gì, tốt hay xấu
- Cung Ly lấy vợ cung Ly: Phục vị (Tốt vừa).
- Cung Ly lấy vợ cung Khảm: Phúc đức (Thật tốt).
- Cung Ly lấy vợ cung Chấn: Sinh khí (Thật tốt).
- Cung Ly lấy vợ cung Tốn: Thiên y (Thật tốt).
- Cung Ly lấy vợ cung Càn: Tuyệt mạng (Xấu vừa).
- Cung Ly lấy vợ cung Cấn: Họa hại (Thật xấu).
- Cung Ly lấy vợ cung Khôn: Lục sát (Thật xấu).
- Cung Ly lấy vợ cung Đoài: Ngũ quỉ (Thật xấu).
Chồng cung Khôn lấy vợ cung gì, tốt hay xấu
- Cung Khôn lấy vợ cung Khôn: Phục vị (Tốt vừa).
- Cung Khôn lấy vợ cung Càn: Duyên niên (Thật tốt).
- Cung Khôn lấy vợ cung Cấn: Sinh khí (Thật tốt).
- Cung Khôn lấy vợ cung Đoài: Thiên y (Thật tốt).
- Cung Khôn lấy vợ cung Chấn: Họa hại (Thật xấu).
- Cung Khôn lấy vợ cung Khảm: Tuyệt mạng (Xấu vừa).
- Cung Khôn lấy vợ cung Tốn: Ngũ quỉ (Thật xấu).
- Cung Khôn lấy vợ cung Ly: Lục sát (Thật xấu).
Chồng cung Đoài lấy vợ cung gì, tốt hay xấu
- Cung Đoài lấy vợ cung Đoài: Phục vị (Tốt vừa).
- Cung Đoài lấy vợ cung Càn: Phúc đức (Thật tốt).
- Cung Đoài lấy vợ cung Cấn: Duyên niên (Thật tốt).
- Cung Đoài lấy vợ cung Khôn: Sinh khí (Thật tốt).
- Cung Đoài lấy vợ cung Chấn: Tuyệt mạng (Xấu vừa).
- Cung Đoài lấy vợ cung Khảm: Họa hại (Thật xấu).
- Cung Đoài lấy vợ cung Tốn: Lục sát (Thật xấu).
- Cung Đoài lấy vợ Ly: Ngũ quỉ (Thật xấu).
Những bài mới hơn
Những bài cũ hơn
© Copyright Vĩnh Phát - Đà Nẵng. All right reserved.
Website: vinhphatdn.ddns.net * vphat.ddns.net * vinhphat.tk * Email: vinhphatdn@gmail.com
Powered by: Nukeviet CMS